Kỳ môn độn giáp

CHIA NGÀY NẠP ÂM

Cập nhật : 09/10/2014
Giáp Tý, Giáp Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Dần, Canh thìn, Canh Tuất :Dương Thương.
 CHIA NGÀY NẠP ÂM

Giáp Tý, Giáp Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Dần, Canh thìn, Canh Tuất    :Dương Thương.

Ất Sửu, Ất mùi, Quý Mão, Quý Dậu, Tân Tị, Tân Hợi                            :Âm Thương

Bính Dần, Bính Thân, Mậu Tý, Mậu Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Tuất          :Dương Trủy

Đinh Mão, Đinh Dậu, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Ất Tị Ất Hợi                             : Âm Trủy

Mậu Thìn, Mậu Tuất, Canh Dần, Canh Thân, Nhâm Tý, Nhâm Ngọ    : Dương Dốc

Kỷ Tị, Kỷ Hợi, Tân mão, Tân Dậu, Quý Sửu, Quý Mùi                          : Âm Dốc

Canh Ngọ, Canh Tý, Mậu Dần, Mậu Thân, Bính Thìn, Bính Tuất        : Dương Cung

Tân Sửu, Tân Mùi, Kỷ Mão, Kỷ Dậu, Đinh Tị, Đinh Hợi                       : Âm Cung

Giáp Dần, Giáp Thân, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Bính Tý, Bính Ngọ     : Dương Vũ

Ất Mão, Ất Dậu, Quý Tị, Quý Hợi, Đinh Sửu, Đinh Mùi                        : Âm Vũ

              

5 ÂM CHỦ 12 THẦN

Tý Dương Cung thuộc Thổ, chủ Đế vương.

Sửu Dần, Dương Trủy thuộc Hỏa, chủ nắng hạn, là cung, là chùa, là cãi cọ.

Mão dương Vũ thuộc Thủy, chủ mưa, sương mù.

Thìn dương Thương thuộc Kim, chủ tướng quân quan lại.

Tị dương Dốc thuộc Mộc, chủ tật bệnh, lo hoạn.

Ngọ âm Cung thuộc Thổ, chủ nữ hậu.

Mùi, Thân âm Trủy thuộc Hỏa, chủ người dưới, học trò, tờ cáo, tờ hịch, thư văn, lửa nạn, bưu dịch.

Dậu âm Vũ thuộc Thủy, chủ sương tuyết, sấm chớp, tối tăm, cầu vồng.

Tuất âm Thương thuộc Kim, chủ tiểu tướng, quân lính, dao.

Hợi âm Dốc thuộc Hỏa, chủ chết chôn, khóc lóc.

Cung là Quân. Thương là Thần tử, đầy tớ. Dốc là dân, là tật bệnh, chết chôn. Trủy là sự việc, là tông miếu, là quỷ thần. Vũ là vật, là vợ, là tiền, là cảnh giới.

Như ngày Tý, gió phương Tý là Cung động, chủ nhà vua ra đi, ban lệnh. Gió bạo thì lệnh kíp, gió từ thì lệnh mừng.

 

XEM 5 ÂM GIÓ ĐỘNG

Ngày Cung:

Gió khởi Tý: Gò núi lở, vua ra, động đất, nắng hạn, có việc chỗ công.

Khởi Ngọ: nắng hạn, động đất, nữ hậu ra.

Lại giờ trên Tý Ngọ là trùng cung: vua, quan đại phu chạy, gió mưa không đều.

Từ Sửu Dần Mùi Thân là Cung động Trủy: có đuốc lửa trên đất, vật báu hiện ra, có binh.

Giờ trên Trủy là trùng Trủy: có nghĩa binh, chiếu lệnh là Nghĩa.

Gió từ Mão, Dậu tới, Thương động Vũ thì mưa lớn, đại thần chạy, nắng hạn.

Giờ trên Vũ là trùng Vũ, tú thì có xá, 5 lúa thành.

Từ Thìn Tuất lại là Cung động Thương, có binh chảy.

Giờ trên Thìn, Tuất là trung Thương, có binh ương.

Gió từ Tị, Hợi lại là Cung đông Dốc thì chủ có chiến, người chủ lo âu, binh khách làm thương, có tang.

Giờ trên Tị, Hợi là trùng Dốc, vua không thư thả.

Ngày Trủy:

Gió lại từ Cung Dương: lửa hạn trên đất, cung điện, chùa chiền tai hại.

Từ Cung Âm khởi, thái tử bệnh tật.

Giờ trên là trùng Trủy, trên đất hỏa tai.

Từ Trủy Dương lại: vua có sợ, hỏa tai, thú chạy vòa làm hại, cung điện chùa chiền cháy, vua và tể tướng lo lắng.

Từ Trủy âm lại: giống súc nuôi chết nhiều.

Từ Thương dương lại: có binh gấp, vua tu giữ 7 ngày, xa thì 70 ngày.

Từ Thương âm lại: có binh chiến 1 ngày.

Từ Thương dương lại: Thần cồng, đại thần chết, vua ương, lấy Nhật xem nước.

Từ Vũ dương lại: 4 mặt lân bang có việc, có ngọc báu, sấm chớp, sương, mưa đá, thần Hậu lo lắng, nhiều hỏa tai, binh Di đến.

Từ Vũ âm lại: vật báu hiện, sấm chớp, nước Di có việc.

Từ Dốc dương lai: có binh, có tang.

Từ Dốc âm lại: ngoài biên kinh hãi binh lửa, Xuân có tang.

Ngày Vũ:

Gió từ Cung dương lại: tài vật tụ, vua có khiến, lệnh cho quân ngoài biên, việc thổ công hung, tướng chịu mệnh, có tập hội, sấm chớp.

Từ Cung âm lại: băng, mưa đá, lạnh làm thương vật, có việc thổ công.

Từ Trủy dương lại: có binh, có lệnh gấp, thần có lo lắng, đường quan ải trở cách.

Gió từ Trủy âm lại: thần ngoài biên có việc  thuôc âm Vũ, có đại tang, thân lạnh tuyết, mưa đá 5 ngày, ví 50 ngày thì mưa lớn, người phương nam lại, nước có lo lắng, người tật bệnh.

Gió từ phương Bắc lại: giặc tụ trong nước.

Từ Vũ dương lại: ngày ứng. Âm Vũ lại: đêm ứng.

Từ Thương lại: binh vây không chiến. Ngoài biên gấp, quan ải trở ngại, mưa lớn, việc quân không lợi.

Ngày Thương:

Gió từ Cung dương lại: Thái tử sợ né nhân thần, có binh gấp. Chủ tật bệnh.

Từ Cung âm lại: thứ tử lo. Có biến gấp, binh Bắc khởi.

Gió từ Trủy lại, binh vây không chiến, lại nắng hạn.

Gió trên: là trùng Trủy, có đại hạn.

Từ Thương dương lại: hội Bạch y tụ, cầu, cửa quan đóng, đại tướng chết, ra ngoài kỵ. Trong ấp binh có đám giặc cỏ (tiểu khấu). Binh ở Tây, vua có lo.

Từ Thương âm lại: có ương, lúa gạo quý. Có binh 7 ngày, nếu 70 ngày thì có lệnh gấp.

Từ Dốc dương lại, chợt có binh, có lệnh gấp.

Từ Dốc âm lại, có tang, có việc thổ công.

Ngày Dốc:

Gió từ Cung dương lại:  Binh ở trung hưng khởi. Vua lo, nước bốn mặt đều bế tắc.

Từ Cung âm lại: Quý nhân bị bệnh, tang việc thổ công.

Từ Trủy lại: đại thần tai nạn, bệnh hỏa, cố sinh sát bật quý (hỏa cổ sinh sát quý).

Từ Vũ lại: việc thổ công hung, mưa lớn, ngoài biên có binh, người nhiều tai tiếng, bệnh. Dân Dy đoạt nhau.

Từ Thương lại: có binh gấp.

Từ Dốc dương lại: ngoài biên binh khởi, người chủ lo, giặc đến chiến, chết nhiều.

Từ Dốc âm lại: có đại tang.

Gió trên: là trùng Dốc: binh chiến, trộm cướp, dân đói.

Cung là Vua. Còn thi đều là Đại thần, trưởng lệnh, quan nhỏ, dân thường, khi xem về việc nước.

Gió khởi, gió tắt, ngày giờ phương vị, Trủy nhiều là Hỏa, Vũ nhiều là Thủy, Thương nhiều là binh, là thóc quý. Dốc nhiều là tật bệnh. Cung nhiều là cát.

Kêu đều, rụng lá, bay bụi, thổi cát thì xem. Lấy Nguyệt tướng, ngày giờ xem để chia thời kỳ. Lấy can chi hợp số. Cung số 10, Trủy số 30, Vũ 50, Thương 70, Dốc 90. Can Chi hợp số như Giáp Tý: 9+9=18, Ất Sửu: 8+8=16 v.v.v

Lại Nhật là lệnh Trưởng, Thời (giờ) là dân. Như Đức Hình đều có, định xem gió cát hung, thường lấy tháng Giêng ngày 20, tháng 5 tháng 11 ngày 14, chờ ở Thiên môn có khí mây hoặc xanh đen, đỏ trắng đều là trong ngoài không thông. Khi khí mây tía đỏ như khói mà không phải khói, như mây mà không phải mây, đùn đùn phất phất, lừng lững như vựa thế là về hè là mây hỷ khí. mây ngậm 5 sắc, nhuận trạch, hòa hoãn, thấy ở trên là Cảnh vân, ứng điềm thái bình. Còn gọi là Khanh vân gió lớn sắp tới. Mây như loạn, mưa lớn sắp tới. Mây rất đặc, mặt trời vào, mây xanh ở Đông Tây cao đến cùng trời, không mưa thì 3 năm tướng chết. Quân chết thì mây trắng Nam Bắc như trận. mây đỏ như máu thì có máu chảy. Khí đen như đường lối thì có xá. mây như rồng bay thì nước lớn. Khí đỏ như hình người 3 ngày, có thần phản loạn. Mây đều 5 sắc không mưa xuống có người hiền ẩn. Đỏ vàng bốn phía luôn ngày đêm có ánh sáng chiếu xuống đất, quan đại thần bừa bãi. Sắc đỏ che mặt trời như máu thì đại hạn, dân đói. Khí đen biến hóa rời chuyển, dân Di đổi Trung quốc. Mây như tấm vải đỏ ở Đông Tây Nam Bắc, trên ấp thì đê biến. Khí đen như đầu trâu, rồng rắn biến hóa thì chủ bệnh, lang tháng, không nên vợ mới dế hội vờn hoa (bất nghi tên phụ diệc vi Địch tâm hóa).

Khí chiến là mây đỏ như long che trên đê, chiến trong ngàn dặm thì cát, ngoài số ấy thì có lo. Mây đổ như cho vào doanh trại, có đại chiến, máu chảy. mây đỏ xoáy mà không động hoặc như rắn đỏ, như thuyền úp, như luống cày hoặc khí trắng như xe vào trong Bắc đẩu, chuyển rời, dưới nơi ấy máu chảy, tướng chết. Hoặc trên mây, khí trắng như cầu vồng giao nhau, hoặc bên mặt trời có nửa vòng tròn 5 sắc, cầu vồng trắng thì đều là khí chiến vậy.

Ngày Xuất quân, khí trời tối mò, khi mây u uất, tất có chiến. Nếu Xanh nhẹ, ôn hòa, gió bụi không động thì không gặp địch, cũng không có chiến.

 

KHÍ MÃNH TƯỚNG

Khi khí lên đến trời, dưới nơi ấy có danh tướng.

Bảo Phác Tử nói: Khí mãnh tướng như thế lửa, như cung trương, hoặc trắng như phấn, nhồi, như kho lẫm, đen như trúc gỗ trong núi rừng, hoặc tía đen như cửa trên lầu, hoặc trên hoặc dưới đỏ như cờ xí, hoặc khí phát ra dần dần như mây rồi biến ra hình núi, hoặc khí mây như hình rồng rắn, hoặc như rồng như hổ ở giữa sát khí, hoặc ở trong thì trắng, khí đỏ nhiều bên ngoài hoặc trong đen mà khí đỏ ở trước, hoặc bùng bùng như trạng khói lửa đều là cường mạnh mưu sâu, không đương nổi. Khí ấy ở trên quân ta thì chiến gấp đi.

 

KHÍ PHỤC BINH

Khi 2 quân tương đương, trước sau trái phải có khí đỏ, tức có phục binh. Khí mây lộn xộn xơ xơ nối tiếp nhau là có ngựa xe phục ở đó. Nếu có cơ cao thì có ít binh phục. Khi trắng lộn xộn như trạng trên lầu thì có vạn quân phục. Trên quân có khí mây đen đầy dẫy mà có khí đỏ ở trong, hoặc như mây đen giữa có cháy đỏ, hoặc mây đỏ giữa là hình người đen trong mây đen, hoặc như cái tán ở trong mây đen, hoặc như chúa sơn lâm hoặc trước là đen mà sau là mây trắng đều là khí phục binh.

 

KHÍ ÂM MƯU

Khi khí trắng quyện đi hoặc như đàn dê dùng dằng kết trận mà đến, hoặc nhật nguyệt lờ mờ không sáng, trong thì quân lính loạn và binh trong phất, hoặc như cái tán mà từ trong doanh ra, tất có mưa lừa. hoặc đen như xe, cờ đi vào trận ta tất có loạn thần mưu thông với giặc. Ngày tối, đêm trăng sáng thì quân mưu thần. Đêm tối, ngày sáng trời thì thần mưu quân. Hoặc ngày đêm tối mò, hoặc tối suốt 10 ngày. Không phải là tháng Đông mà gió nổi loạn lên thì vua tôi mưu gian. Như 2 nước cùng đồ đảng nhau, khi đên bay phơ phất có chúa 5 sắc, đến trên quân ta thì địch và bầy tôi mưu tự bại mà chết.

Khi binh địch đến bao vây, tất có mây đỏ lừng lẫy vừa kịp lúc Vương tử về trông thấy, hoặc đỏ như cờ xí, hoặc chỉ thấy mây đỏ như cầu vồng, như chó, như thuyền úp tản khắp gầm trời trắng.. Khí mây như tấm vải suốt dọc Sửu Mùi, hoặc rộng 6-7 trượng Đông Tây suốt trên dưới, binh khởi, đỏ thì càng mạnh, xanh thì đại tang. Lại trắng như dưa bó, như áo người tiên muôn ngàn giải thắt lại cởi, đến 8-9 trượng liền mà không dứt thì có ngàn dặm binh đến. Hoặc cầu vồng đỏ như chó, bốn cái cùng tụ như người đi không hết, hoặc như cọp ngài (cọp kết bằng lá ngải ngày tết đoan dương) hoặc trên có mây, dưới có mưa lăn tăn từ lưng trời xuống, rơi vào quân ta, hoặc mây đen từ phía địch lại, úp quân ta, có mây như người mà đỏ vào thành ấp, bốn phía nhìn không thấy mây, chỉ có mây ở giữa vòm trời khởi, hoặc như người hổ bầy trận, hoặc như cầm mộc đỡ, như cháy đỏ, như mấy lửa, như thế người cầm thẻ, hoặc như cờ xí trương ra, đều chủ binh địch đến đánh lén ta.

Trận tiền sắc đen là có âm mưu, sắc xanh binh phản, sắc đỏ binh đói, sắc vàng thì đi mau mà không nên đánh.

 

KHÍ QUÂN THẮNG

Khí quân thắng trước đỏ sau trắng, mây như cờ xí phất cao trỏ địch hoặc khí như cất lên trước sau quét đất, hoặc như nhật nguyệt có quầng sáng tóe ra như chim bay lại mà cao, hoặc đỏ trắng theo nhau như gà chọi trong mây sương, hoặc như 3 tấm vải, trước rộng sau lớn, hoặc như một tấm vải, đều không thể thắng được.

Lại như 5 đầu ngựa, đuôi thấp, lại như chim đỏ ở trong khí, như chày đỏ ở trong mây trắng, như người trong khí đen như người cầm búa hướng về, như rắn cất cao đầu về, như người dắt trâu, như thuyền úp, như con dế nhỏ, như cây núi rừng, như hổ phục báo, như đẽo gỗ, như giải sợi đỏ bao quanh, hoặc đỏ vàng liền nhau, trời như lọng hoa đứng một mình, hoặc khí mây 5 sắc như kéo tơ, hoặc như trận sắc bén, đều là thắng khí.

 

KHÍ BẠI

Trên doanh, khí từ phổ, khô tán hoặc như gan ngựa, như tro chết, như xe đổ đều là khí bại. Hoặc che đường lung tung khắp cả không rõ, cơm không kịp ăn, nấu không kịp chín thì tức đi ngay đi. Hoặc đen như núi đất, hoặc mây trắng như đàn chim bay dồn vào doanh, kết liền trăm dặm không tuyệt thoáng cái không thấy thì chủ nước khác đến hàng.

Khí như chim bay loạn, như phấn như bụi, như khói cỏ tươi đốt, trước sắc sau nhạt, như cỏ bồng khô chuyển, nhanh đánh tới.

Mây như chiếc lọng nằm ngửa, như con cá nằm ngửa, tới trên quân, như đám dê đám lợn ở trong khí, ở ngoài 10 dặm, ngóng xem khí trên quân thấy nhiều trước trắng sau xanh, hoặc gà con tới trên doanh, như ngựa ở trong khí dần dần vào doanh, như một rắn uốn khúc, như chồn sợ chạy, hoặc tia sáng đỏ từ trời chảy xuống như khí phát suốt đêm chiếu người, hoặc như chiếu cuộn, như than, như người nằm không tay không chân, như chim bay loạn, như thuyền úp xe lật, như đê lở, như khí mù mới khởi tụ tán hiện mất, như người mười mười lăm lăm dắt tay cùng hướng. Lại khí  ba ra mà một nửa tuyệt thì tướng bại, khí tuyệt hết, tướng chạy, đều là tượng thua chạy trốn tránh.

Thành, có thành không công nổi. Khi khí mây xanh vàng tới thành, ví trong thành mây trắng ra về mặt Nam Bắc, hoặc khí Trắng ở trong ra mà khí Xanh ở Bắc vào, đi lại, xa ra 4 mặt, ví khí đỏ như chày hướng ra ngoài, có mây đen như sao mọc gọi là tinh sao. Ví mặt trời quầng, có khí xanh đỏ từ trong ra 4 mặt, ví khí mờ nhiều thành mà không vào, ví trên thành có khí trắng như hình trạng cờ xí, ví sợi đỏ, ví mây xanh vào, như đầu trâu húc ngàn người, ví khí như khói lửa từ trong ra mà vào quân ta, ví như đuôi rắn, ví mây chia ra 2 tuyết, ví mây khắc Nhật (như ngày Giáp Ất sáng sớm có mây trắng, ngày Bính Đinh có mây đen….), ví vây thành mà sấm mưa cả tuần, lại trên thành khí đầy, người không thấy, đều là không thể công thành được.

Có thành không thể khắc, khi khí đỏ trên thành mà khí vàng 4 mặt nhiễu quanh, tướng chết.

Thành hàng, trong thành khí tụ như lầu mà xuất hiện ra ngoài, lại cầu vồng đỏ từ ngoài vào, 3 ngày có thể ốm. Mặt trời quần trùng, mà cầu vồng bọc lấy và sương mù vào thành, khô trắng nhiều quanh mà vào sau, hãy công nơi vào ấy. Khí đỏ đen như da hồ ly, vừa dọc vừa thẳng, đỏ như gà trống vào thành, hoặc khí đỏ như đầu mọi người, như chim bay, như xe đổ, khí ra hướng Đông Nam thì không thể công được. Khí ra hướng Tây Bắc hoặc mây như 2-5 người, như 3 con trâu, như rắn trắng trở thanh, hoặc khí xanh và khí trên đỏ dưới trắng, cung là mặt trời không sáng sủa, buổi sáng có gió Tây Nam tới, tất khắc được. Trong thành khí ra rồi lại vào, người muốn trốn.

Khi khí 2 quân tương đương, lây Tây là ta, Đông là địch làm lệ. Tây dày Đông mỏng, Tây dài Đông ngắn, Tây cao Đông thấp, Tây mượt Đông khô thì quân ta thắng, ngược lại thì bại. Khí yên thì quân yên, khí tán thì quân loạn. Khí Nam quân cũng Nam, khí Bắc quân cũng Bắc, đối dịch. Có lửa lại hãy sớm úp người xuống ngòi rãnh, giặc lớn đang đến. Mây như rồng giao, khí thắng đó. Như thỏ đục thì toi mạng. Ngày Giáp Ất, phương Đông có khí xanh, đó là khí thịnh, khí vàng thì đó là khí chết.

Mới xuất quân, khí đỏ theo mặt trời mọc, ngồi thì có lo. Theo mặt trời lặn, ở ngoài có cáo cấp, thu binh đừng đi.

Kinh phòng nói: “ Khí đỏ bay, khí đen theo, khí đỏ diệt, có thể thắng giặc. Có đỏ không đen thì không thể thắng giặc, bị vây cũng vẫn thịnh. Trên cửa quan, khí đùn đùn như lửa sáng tóe ra õng õng, tất có cứu đến bên ngoài. Xuất quân, mây theo sau lại, từ chỗ lại mà đánh thì thắng, ngược thế thì gấp dồn binh cố thủ.

 

GIÓ 5 ÂM

Tiếng cung: gió bong bong như tiếng trống lôi cổ, như trâu dê kêu trong hầm. Tốc mái đổ cây chủ đất động. lòng vua phiền, lệnh gấp, quỷ thần, phụ tướng nghi kỵ nhau, binh khởi không yên. Ngày ấy, gió từ Cung lại, núi lở, bở trôi, vua ra, đất xé. Gió từ Dốc thì Hoàng trùng hại lúa. Từ Thương lại, nước to gió lớn bạo. Gió từ Trủy lại, bệnh cổ, thú lang làm hại. Từ Vũ lại thì rét lớn, lạnh khô, đại thần hung.

Tiếng Thương: Gió như dê lạc đàn, như kéo chuông khánh, như chim bay dồn, như họng kêu nước chảy cảm người.

Tốc mái đổ cây, chủ có binh khởi trong cung, quân chiến đấu có lệnh gấp, cầu, quan ải không thông là ngày diệu quý. Gió từ Thương lại, hội Bạch y tụ tập, cửa quan, cầu tắc, đại tướng lui, bình ngoài vào. Từ Dốc lại, nước có tang, binh hành. Từ Cung lại, nước có lo, tướng ở ngoài, binh không chiến. Từ Trủy lại, lệnh vua hành binh, chủ hung. Từ Vũ lại, mưa lớn đến, ở ngoài binh giải.

Tiếng Dốc: Gió như ngàn nười cùng kêu hò, hoặc khách khách như ngàn người xướng lên khiến người buồn bã như gió rên, trì kêu trên cây. Tốc mái gẫy cây, có binh cấp đều vào thành ấp. Gió từ Thương lại, có binh bạo, quân lệnh, trong cung quý nhân bệnh, việc thổ công hung. Từ Vũ lại, dân ruộng đói. Từ Trủy lại, tỏ quý, có lửa cháy. Từ Cung lại, không lành. Từ Dốc lại, không cát.

Tiếng Trủy: Gió như ngựa chạy, lửa bốc, như tiếng trói. Tốc mái, đi tới hỏa tai, yêu hại, việc gấp, bình hành. Ngày ấy, gió từ Trủy lại, lửa bốc, vua lo. Từ Dốc lại, lửa bốc, việc thổ công, đại hàn. Từ Cung lại, tang tóc, khóc lóc, chùa, nhà lửa cháy. Từ Thương lại có bình đấu. Từ Vũ lại, vật báu ra khỏi nước, nhiều sấm động, có sứ lại.

Tiếng Vũ: gió như đánh trông nhẹ, như tiếng mẹ gọi con, như nước dâng sóng vỗ, khí mài nhau. Tốc mái đổ cây, binh khởi, diệu quý.

Ngày ấy, gió từ Vũ lại, tai nạn mưa, mưa đá, sương. Từ Thương lại, có binh đấu, tướng lo. Từ Cung lại, gió bạo, mưa lớn, khí lạnh làm thương vật. Từ Trủy lại, thần và dân có lo. Từ Vũ lại, thành vây không đi. Sách Phong Dốc.

 

 

Tiện ích Bambu
Tin liên quan
Bạn cần tìm kiếm?
Advert Advert2 Advert3
TextLink
BAO LA VẠN SỰ

Mobile: 0913 290 384  /  Email: tranngockiem57@gmail.com hoặc tuvan@phuclaithanh.com

Copyright © 2014   BaoLaVanSu. Thiết kế và phát triển bởi Bambu®