VƯƠNG THỊ LA KINH THẤU GIẢI TÂN ĐÍNH QUYỂN ĐẦU
Biên soạn : Thục Đồng Âm dương học , Vương Đạo Hanh Hiệu chính: Định Ấp Nho trí Vương Thiệu Chí Tham duyệt: Học trò là : Lý Duy Tân,Chu Quốc Hồng,Đặng Quan Vũ,Trần Vạn Bằng.
- Long mạch chia làm 24 vị khí, thuộc về Ngũ Hành, Âm Dương mất hay còn mặc dầu, căn cứ vào Hướng, Long, Huyệt, Sa, Thủy, nhưng then chốt của họa phúc đều căn cứ ở trong một cái huyệt. Chính giửa huyệt mà chiếu đủ Tiêu Sa , Nạp Thủy và Thừa Khí , cần phải rành rẽ cách phân châm , để thực hiện 3 điều trọng yếu :
1- Khi xét về Long, phải coi kỹ chỗ Xuất mạch
2- Coi về Huyệt, phải nhận kỹ chỗ Động khí. 3- Coi về Thủy lai, phải coi kỹ chỗ Thủy triều lại; ở trước mặt Huyệt coi Thủy khứ, phải coi kỹ chỗ cửa miệng nước chảy ra đi. Coi về thủy phải coi về sự hợp cục và phá cục. Coi về Long lai thì phải coi chỗ Long Nhập Huyệt (hoặc là phía sau). Coi về Hướng thì phải coi ở đằng trước. Coi Thủy lai thì phải coi ở chỗ nước chảy tới tới (Minh Đường). Coi Thủy khứ thì phải coi chỗ nước chảy đi ra (Ngoại Minh Đường) Nếu không rõ hình thế mà đặt La Kinh cẩu thả , bậy bạ , thì tai hại vô cùng! Người đời xưa nay đều nói: Thầy thuốc lầm chỉ hại 1 mạng người, thầy địa lý lầm làm hại cả dòng họ người ta! Bởi vì, chỉ có Tuyệt Hướng mà không có Tuyệt Long, tức là không sai về Sa, Thủy, mà chỉ bị về Lập Hướng sai vào phương Khắc Sát, mà bị Tuyệt thôi! Xin các Thầy Địa Lý trong thiên hạ, nên lưu ý để cho những người hiếu tử, hiếu tôn được nhờ ơn Thầy, được ngôi mộ của Tiền nhân an lành, phát phúc cho cháu chắt đời sau, thì không phúc gì bằng! Những sách tham khảo: - Thanh triều khâm định hiệp kỷ: để phân biệt Ngũ Hành, bàn về các sao và ngày tháng. - Duyên đàn tử: Phân biệt Sa, Thủy và phân chia cung vị. - Lưu thị gia tàng: Nói về ngày tháng. - Nhất quán kham dư: Nói về tinh thể và La Kinh. - Tứ đàn tử: Nói về các Tinh thể và Thủy pháp. - Tượng cát: Nói về năm tháng. - Chính kỷ nhất thống: Nói về Xuyên sơn thấu địa. - Thiên cơ hội nguyên: Nói về Tinh thể địa bàn. - Ngao đẩu: Nói về năm tháng và quái lệ (các quẽ) - Đính hỗn châm: Nói về Ngũ hành, Thiên Văn, Địa lý. - Bình địa ngũ tinh: Nói về Dương Trạch. - Nguyên chân: Nói về Thủy khẩu và Tam hợp. - Địa lý bất cầu nhân: Nói về Tinh thể địa bàn. - Thanh lang kinh: Nói về Quái lệ (các quẽ). - Tào an phong: Nói về Tinh thể (hình dạng sơn sa). - Tuyết tâm phú: Nói về Tinh thể. - Ngọc tủy kinh: Nói về Tinh thể. - Sơn dương chỉ mê: Nói về Tinh thể. - Ngũ chủng bí khiếu: Nói về các quẽ và Địa bàn. - Sùng Chính tịch mậu: Nói về năm tháng và Ngũ Hành. - Trần tân chu: Nói về Tinh thể. - Địa lý thống nhất toàn thư: Nói về Tinh thể. - Trần tử tánh : Nói về năm tháng ngày giờ. - Ngọc xích kinh: Nói về Thiên văn và Địa lý. - Địa lý đại thành. Cần phải đọc sách của các bậc danh sư , trong đó có nhiều điều chỉ dạy huyền bí.
MỤC LỤC CÁC TẦNG CỦA LA KINH
Tầng 1 - Là Tiên Thiên bát Quái biến thành Hậu Thiên Bát Quái. Tiên Thiên làm cái bản thể, Hậu Thiên làm cái sử dụng. Dùng Hậu Thiên không được phá Tiên Thiên, chỉ dùng Hậu Thiên chứ không dùng Tiên Thiên, nhưng vẫn có Tiên Thiên ở bên trong.
Tầng 2 - Lạc Thư biến thành Tứ Tượng. Hóa Hậu Thiên thành Cửu Tinh (9 sao), chia Lục Giáp thành 120 phân kim, ngang dọc 16 cái và 5 số. Tầng 3 - Bát Quái Hoàng Tuyền, tức là Quan và Quỹ của Tiên Thiên Bát Quái, hòa hợp với Ngũ hành để sử dụng trong việc: Long thời kỵ Thủy lai, Lập Hướng thì kỵ khắc Long.
Tầng 4 - Là tứ lộ và Bát lộ Hoàng Tuyền bạch Hổ (tức sao sát) của Địa Chi, quay đi trở lại. Hướng về Bát can thì kỵ Tứ duy Thủy lai , Hướng Tứ duy thì kỵ bát can Thủy lai; nghĩa là 4 phương Hoàng Tuyền, 8 phương Khắc Sát, l nước chảy đi thì tốt, nước chảy lại thì xấu. Nếu phạm thì hao người tốn của.
Tầng 5 - Cửu tinh ứng vào cục đất để phân biệt Long tốt xấu, coi sắc đất biến đổi mà tìm Huyệt, tương ứng với thứ vị của 24 vì Thiên tinh mà lấy dùng.
Tầng 6 - Kim chính thức của Địa bàn dùng để xem Long lai, định hướng, thừa khí nhập Huyệt; Lập Trạch, An Phần chọn âm dương. Tóm lại, cả 36 tầng đều căn cứ ở tầng này vận chuyển mà sử dụng.
Tầng 7 - Âm và Dương Long của Tiên Thiên Bát Quái, Kiền Nam, Khôn Bắc, Ly Đông, Khảm Tây, ở 4 phương chính là Dương, Chấn, Tốn, Cấn, Đoài ở 4 phương góc tức là Tứ Duy của Tiên Thiên là Âm. Mỗi quái Nạp Âm đều có Can và Chi là nửa Âm, nửa Dương. Phép biến Thủy không được sai lầm về Âm Dương.
Tầng 8 - Chính Ngũ Hành, tóm hết thảy cả trong địa bàn, nguồn gốc là do Hà Đồ mà ra, phân Đông Tây Nam Bắc, 24 sơn và sự tương khắc của Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ để sử dụng.
Tầng 9 - Là Kiếp sát, lấy Tọa Sơn làm chủ, chỉ kỵ 1 sơn xấu, hoặc nghiêng ngã, vỡ lỡ thôi, còn tốt thì không kỵ.
Tầng 10 - Là 72 Long Xuyên Sơn, ở trong Địa Bàn ghi 60 Giáp Tý, trong 5 cung Tý có 12 chữ chính màu đỏ là để chỉ 4 phương tứ duy và 8 phương bát can, thấu thành 72 Long, lấy lẽ Long Nhập Thủ thừa tiếp với thấu địa khí 1 mạch rót suốt vào Huyệt, và để phù hợp với 72 thời tiết mỗi năm.
Tầng 11 - Xuyên Sơn làm quẽ gốc, sách Chu Dịch gọi là Thiên Thông. Trong Kinh Dịch lấy quẻ Kiền làm đầu, nói: Thiên Địa biến hóa ra quái, hào để bổ trợ cho Lai Long; Tọa Huyệt là chủ của Thể, Dụng.
Tầng 12 - Là Trung Châm thuộc về Nhân Bàn, tham hợp với Thiên-Địa 2 bàn, là Thiên- Địa-Nhân tam tài. Ông Lại Công lấy để Tiêu Sa và tham hợp với Ai Thiên Tinh và Nhị Thập Bát Tú, để làm biểu lý , bàn về Thái Dương đáo Sơn, và 12 vị Tiến Xá Tinh; và đến 12 cung phân ranh giới 24 vị Thiên Tinh, Thấu Địa Kỳ Môn, tất cả đều do tầng Trung bàn này thông dụng.
Tầng 13 - Là 60 Long Thấu Địa. gọi là Thiên Kỷ, ở phía sau ngôi mộ hay là ngôi nhà khoảng 8 thước chỗ Loan Đầu phân khí dẫn suốt tới. Có các chữ Vượng, Tướng, Châu Bảo, sát Diệu , Hỏa Khanh, Cô Hư, Sai Thác và Không Vong, để phân biệt lấy quẽ xung hòa 9x6= 54 là Vượng Tướng, không xung hòa là Không Vong.
Tầng 14 - Là Thấu Địa Kỳ Môn, người ta lấy 2 quẽ độn Tử Phụ, Tài Quan, Lộc Mã Quý Nhân, Âm Dương làm gốc để khởi lệ.
Tầng 15 - Là Thấu Địa Quái, lấy Thấu Địa làm nội quái, gọi là quẽ Liên Sơn. Nhà Hạ dùng Nhân Thông, nên Kinh Dịch lấy quẽ Cấn làm đầu, quẽ phối thì lấy Hỗn Thiên Ngũ Hành, phối hợp với quẽ Tử Phụ, Tài Quan, Lộc Mã Quý Nhân là Tứ Cát (4 cái tốt) của Sa, Thuỷ làm đắc dụng.
16 - Là Thấu Địa 60 Long phối hợp với 28 ngôi sao, ngũ thân (5 cái gần) Sa, Thủy, Cầm Tinh, để quản cục trì thế, một cách tự nhiên mà dùng. Tầng 17 - Định phương vị của Tứ Cát là: Ngũ Thân, Tam Kỳ, Bát Môn, Cửu Tinh đáo Sơn.
Tầng 18 - Là Phùng Châm Thiên Bàn để biến Thủy Lai và Khứ. Đây là quẽ phiên của Dương Công, gồm có có 9 sao là Thiên Phụ Quái, phiên: Bật, Phụ, Vũ, Phá, Liêm, Tham, Cự, Lộc, Văn làm Cát, Hung thần, để đoán phúc họa do ở luật Tịnh Âm, Tịnh Dương mà ra.
Tầng 19 - Là 240 phân số, do Lạc Thư chia ra 16 cái, 15 số dọc, ngang thành 240 phân số, chia cho 24 sơn, mỗi sơn 10 số. Đây là nguồn gốc của phân kim.
Tầng 20 - Tầng Địa bàn phân kim, gia giảm 2 phân, 8 phân (2/8) : giảm Sa, Thủy, Minh Đường không ngay, Khắc Mệnh, Khắc Long, vì vậy mới có sự gia giảm bên 3 phân, bên 7 phân (3/7).
Tầng 21 - Là tầng Thiên bàn phân kim, gia, giảm tam, thất (3/7). Mỗi Sơn có 5 chữ phân kim, như Tý Sơn thì có: Giáp Tý, Bính Tý, Mậu Tý, Canh Tý, Nhâm Tý, thì Giáp Ất là Cô; Nhâm Quý là Hư; Mậu Kỷ là Sát; Bính Đinh là Vượng; Canh Tân là Tướng; để tránh sự gác giây, sai lầm vào Không Vong...vv..thì tai hại lắm!
Tầng 22 - Là phân biệt khoảng Vượng, Tướng, Cô, Hư. Lấy Bính, Đinh, Canh, Tân, chỉ vào khuyên chữ đỏ là Vượng Tướng. Mậu Kỷ chỉ chữ Thoa (X) là sát diệu Giáp, Ất, Nhâm, Quý chỉ điểm đen là Cô, Hư, Không, Vong.
Tầng 23 - Là phân kim phối với Địa Nguyên, thuộc quẻ Ly tàng, là quẻ ở ngoài. Nhà Ân dùng Địa thống, nên Kinh Dịch lấy quẻ Khôn làm đầu. 60 quẻ phối với 60 phân kim, lấy quẻ Kim lưỡng toàn làm Vượng, Tướng, gọi là Đắc Kim. Ngoại trừ 4 quẻ Khảm, Ly, Chấn Đoài, là quẽ Tiên Thiên chính thức ứng với 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông, mỗi mùa giữ 1 quẻ, mỗi quẻ 6 hào, mỗi hào gồm 15 ngày (4x6=24) , 24 hào gồm 24 tiết khí, ngoài 60 quẽ, mỗi tháng 5 quẽ, mỗi quẽ 6 ngày (6x60=360), nên mỗi năm có 360 ngày.
Tầng 24 - Là Nạp Âm Ngũ Hành, 60 Giáp Tý, Thiên Can, Địa Chi phối hợp, do Tiên Thiên Bát Quái lấy Nạp Giáp phối. Ngoại trừ quẽ Kiền và quẽ Khôn là Đại Phụ Mẫu không kể, nếu Thiên Can gặp Tý, Ngọ, Sửu, Mùi tại Chấn, Tốn, sẽ do 2 quẽ suy luận; Thiên Can gặp Dần, Mẹo, Thân, Dậu tại Khảm, Ly sẽ do 2 quẻ suy luận; Thiên Can gặp Tuất, Hợi, Thìn, Tị tại Cấn, Đoài sẽ do 2 quẻ suy luận; Theo phương pháp Dụng, lấy 9 Mộc, 7 Kim, 5 Thủ, 3 Hỏa, 1 Thổ. Đặt tại cửa đầu kim, phải biết ý nghĩa sâu xa.
Tầng 25 - Là phương vị của 12 cung, nếu được Tinh phong đẹp đẽ, Sa -Thủy trong sáng, được chứng ứng ở phương nào, thì cung ấy phát quý, hưởng lộc.
Tầng 26 - Là vị trí của 28 ngôi sao, ngôi nào đóng ở độ số nào, thì ứng với tỉnh, châu, thành, huyện ở cung ấy (ở dưới đất).
Tầng 27 - Là 24 khí tiết của hàng tháng đón Thái Dương đến cung, tránh Hung sát, tìm Tốt lành: tức là cung Trục Nguyệt, lấy 4 cái Đại Cát Thời làm Thần Tàng sát để Tạo, Táng, thì được Thượng Cát (tốt trên hết). Tầng 28 - Là vị trí của 12 Tướng Đăng Minh, đón Thái Dương đến cung, nửa tháng tới 1 Sơn, mỗi tháng qua 1 cung, đi ngược lại 24 sơn, tức là cung Đăng Minh.
Tầng 29 - Là 12 vị tinh thể Nghinh Thái Dương đáo cung triều xá, mỗi tháng giửa kỳ khí tiết, để rước Quý Nhân lên Thiên môn.
Tầng 30 - L cung xá quán dịch, tức Thần Thái Dương. Đem văn, võ bá quan đến chỗ chân thủ, mỗi tháng cùng Thái Dương qua 1 cung, tạo táng gặp ở cung này rất tốt, mọi cái sát tiềm tàng hết.
Tầng 31 - Là 24 ngôi Thiên Tinh chiếu vào cục đất, chia ra Tam Cát, Lục Tú, Cửu Tinh; Sa, Thủy Thôi Quan, phát phúc. Nếu được Sơn quý tất xuất Đại Cát Quý. Tiên Thánh nói: Long lấy xung hòa làm đẹp; Tinh lấy được phối làm tốt, chính chỗ này vậy.
Tầng 32 - Là Hỗn Thiên Ngũ Hành tinh độ, tại 28 vì sao, chia làm Thất Chính (7 vị Chủ tinh) đều có định, sở, thuộc 1 sao; cũng có ngũ hành ở trên: Kim 12, Mộc 13, Thủy 12, Hỏa 12, Thổ 12, cộng có 61 vị. Duy có cung Cấn là nhiều thêm chữ Mộc. Đây là Ngũ Tinh Đăng Viên (5 sao đến cục), Ngũ hành cùng với Xuyên sơn, Thấu địa, Phân kim, sự Cát, Hung cùng là cái ở trong, cái ở ngoài, lại hợp với 72 khí tiết, 365 độ trong 1 năm.
Tầng 33 - Là chia đều 60 Long, tham hợp với 61 Hỗn Thiên (tức Hỗn Thiên Ngũ Hành), mỗi chữ 1 Long, mỗi chữ quản 6 ngày, thành ra 365 ngày 3 giờ, để ứng với 72 thời tiết của độ số trong 1 năm. Địa bàn căn cứ vào đó căng giây, Phân kim, Thấu địa, Toa huyệt mà dùng. Trong sách Ngỏa Vương hợp tượng cát thư, còn có 24 sơn Thấu Địa Long, thừa khí nhập huyệt.
Tầng 34 - Là ngang, dọc độ số của 28 sao, hợp với Nhân bàn có 365 vạch. Trong giới hạn độ số của mỗi sao, chia ra Thượng quan, Trung quan, Hạ quan (quan là cửa) để dùng làm cung vị Tiêu sa, là phép của Ai tinh.
Tầng 35 - Là định sự Sai thác và Không vong, có điểm đỏ, chấm đen để gát dây Phân kim, cùng với Xuyên sơn, Thấu địa làm cái ở trong, cái ở ngoài liên quan nhau. Khi giăng dây Phân kim phải đặt trên điểm đỏ, không được đặt vào điểm đen, nếu lọt vào khoảng của chấm đen một nửa sợi tơ tóc là hỏng.
Tầng 36 - Là 28 sao phối hợp với 24 sơn, và Trung châm Tiêu sa của Nhân bàn, gọi là phép Ai tinh. Lấy sao của sơn Tọa Huyệt làm chủ; lấy sao ở đằng trước làm Hướng; và tả, hữu làm Khách. Huyệt trường là Ngôi Bắc Thần (sao Chính chủ), Sa, Thủy là Nhị Thập Bát Tú (sao phụ tá). Cũng như sao Bắc Đẩu có các sao khác chầu vào. Vậy sách nho có câu "Thí như Bắc Thần cư kỳ sở, nhi chúng Tinh củng chi" chính là bảo về nghĩa thế. Trên đây là 36 tầng La Kinh, tôi tham khảo các kinh sách của các vị Tiền Hiền, lập ra La Kinh toàn đồ và chỉ dẫn phép sử dụng minh bạch. Phân phối phổ thông ra bốn phương trong thiên hạ, để mọi người cùng biết sử dụng mà tìm lành, tránh dữ cho công việc tạo phúc khỏi bị nghi hoặc và sai nhầm.
KHÂM ĐỊNH LA KINH THẤU GIẢI QUYỂN THƯỢNG
Bàn về việc dùng La Kinh không khác gì: Đứng trên bờ suối, lượng bóng cây, đo chiều sâu … La Kinh đầu tiên là do Hiên Viên Hoàng Đế đi đánh Si Vưu bị lạc đường. Thượng Đế sai bà Cửu Thiên Huyền Nữ hiện xuống, chỉ cho cách mà đặt ra phương hướng, mới phá tan được yêu thuật của Si Vưu. Phép dùng kim chỉ nam là có từ khi đó, tuy nhiên, câu chuyện có vẻ hoang đường. Có người nói do ở vua Thành Vương nhà Chu. Khi ấy nước Việt thường đến triều cống. Khi về sứ giả quên đường cũ, sợ lạc lối, nên vua nhà Chu cho chế ra Chỉ-nam-xa (xe có kim chỉ nam bắc) để dẫn đường. Từ đó La Kinh mới dùng kim pháp để định vị trí, quan sát khí thế để thừa khí vào huyệt mà đặt táng Âm phần. Xét hành độ của các thiên tinh xung hợp, lấy sinh, vượng khí, phân tích rõ rệt tính chất của Tiên Thiên, dùng Hậu Thiên để xem Thủy lộ chảy đi, chảy lại; xét kỹ càng về họa phúc do hào ly ở nơi sai, đúng, làm cho Trời không đổi được mạng người. Vì vậy người trí thức có tài năng, am hiểu về địa lý, thiên văn, thì có thể đoạt được thần công, cải được Thiên mệnh! vậy đất có nhiều cái không hoàn toàn mỹ mãn, nên phải thay đổi, thêm bớt ít nhiều để tránh sự hung, tìm cái lành. Vì vậy ý nghĩa của Tam Tài là cần yếu phải xem ở La Kinh, mới rõ ràng được chí lý. Trên xem được Thiên thời, dưới xét được Địa lợi, giửa có thể quyết định được nhân sự. Ngoài ra không còn cái gì khác và phải đạo lý hơn cả. Luận thái cực hóa sinh: 1/. Thái Cực là Hoàng Đạo, Ngũ Hành thiên biến, vạn hóa là do ở đó. 2/. Tượng (Lưỡng Nghi) tức Âm và Dương, là Kiền Khôn (trời đất). 3/. Tam Tài (là Trời, Đất, Người). 4/. Tứ Tượng (là Đông, Tây, Nam, Bắc). 5/. Ngũ Hành (là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). 6/. Lục Giáp (là mỗi 60 năm là 1 Nguyên, có Thượng Trung Hạ Nguyên). 7/. Thất Chính (là Nhật cầu, Nguyệt cầu và 5 vì Tinh tú). 8/. Bát Quái (là Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài). 9/. Cửu Cung (là Tham, Cự, Lộc, Văn, Liêm, Vũ, Phá, Phụ, Bật). 10/. Thành số (theo ở Lạc Thư, thì 1 được thêm 9 thành 10, gọi là Hợp Thập).
KHẢO NGHIỆM LA KINH (Khởi lệ, dụng pháp, đối chứng)
La Kinh chế ra tập trung được tất cả mọi tinh hoa của Trời Đất. Nguyên bản Thái Cực là tinh chất của Thiên Địa ngưng đọng lại, là căn bản của vạn vật. Đặt tên là La Kinh, vì chữ La có nghĩa là "bao la vạn vật"; Kinh có nghĩa là kinh luận "Kinh Thiên Vĩ Địa, là trải khắp cả ngang Trời, dọc Đất". Sở dĩ lập ra có qui cũ (khuôn mẫu) quyền cái, khinh trọng, thành ra vuông, tròn, chẳng cái gì mà không do cái Kim Châm (kim vàng chỉ nam, bắc) và cái Thiên Trì (vòng tròn). Trước hết để định về Phong Thủy, giả sử cái La Kinh mà không có Thiên Trì, thì không quyết định được phương Tý, Ngọ; không phân biệt được Âm Dương; không hoạch định được Bát Quái, Cửu Cung ; Ngũ Hành lẫn lộn, không sử dụng được 2 đầu mối của Can Chi; không biết được Long, Hướng, Khí, Mạch hay dỡ thế nào, lấy gì mà làm căn cứ? Vậy nên phải có Kim Châm ở trong vòng Thiên Trì. Động thì Dương, Tĩnh thì Âm. Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, phân ra Bát Quái; định vị Cát Hung, tự nhiên hóa hóa, sinh sinh, vô cùng vô hạn! Nguyên bản của Trời Đất không phải là ở đầu cực, mà ở 1 điểm chính giửa đỉnh châm làm tổ khí , và cũng là căn bản của vạn vật, vạn hóa. Phân xét: Ngoài Thiên Trì ra thì La Kinh tức là Thái Cực, phải lấy giửa Tý, Ngọ mà phân làm Lưỡng Tượng; Lưỡng Tượng hợp với Mẹo, Dậu làm Tứ Tượng; Tứ Tượng hợp với Tứ Duy làm Bát Quái; Bát Quái định được rồi thì mọi phân vị đều được minh bạch quyền hành phận sự. Tức là Thiên Đạo, Địa Đạo, Nhân Đạo đã thiết lập định hoạch tinh tường. Có bài thơ: Hư, Nguy chi gian châm độ minh. Nam phương Trương độ thượng tam thừa. Khảm Ly chính vị, nhân nan thức. Sai khước hào Ly, đoán bất linh. Nghĩa là: trong khoảng sao Hư và sao Nguy đã phân rõ ranh giới; phương Nam thuộc về độ phận của sao Trương, trên có 3 vị liên tiếp (Bính, Ngọ, Đinh); Khảm và Ly là ngôi chính khí, đời ít có người biết! Nếu làm sai 1 li, thì đoán họa, phúc không linh nghiệm.
TẦNG THỨ 1: TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
Tiên thiên bát quái là do hai vị thánh: vau Phục Hy và Văn Vương chế tạo ra, phù hợp với đức độ của trời đất và sự quang minh của nhật nguyệt thứ tự thời tiết của 4 mùa, cùng sự cát hung của nhân gian, như là có linh ứng của quỷ thần. Do thái cực chia ra động và tĩnh để làm lưỡng tượng tức là âm dương… Do ở trong dương tượng mà sinh ra thái dương và thiếu âm. Do trong âm tượng mà sinh ra thái âm và thiếu dương; tức là tứ tượng. Do thái dương mà sinh ra Kiền – 1, Đoài – 2. Do thiếu âm mà sinh ra Ly – 3, Chấn – 4. Do thiếu dương mà sinh ra Tốn – 5, Khảm – 6. Do thái âm mà sinh ra Cấn – 7, Khôn – 8; là bát quái. Bát quái quyết định việc tốt xấu; tốt xấu sinh ra tất cả mọi việc hay dở. Nét vạch của quái (tức quẻ) thì có chẵn, lẻ như là: quẻ Kiền thì tam liền (tức 3 vạch liền). Khôn lục đoạn (nét đứt). Chấn ngưỡng bồn (tức hình cái chậu để ngửa). Cấn phúc uyển (hình cái chén úp). Ly trung hư (hình rỗng giữa). Khảm trung mãn (liền ở giữa). Đoài thượng khuyết (nét trên thiếu, đứt đôi). Tốn hạ đoạn (nét dưới đứt đôi) Theo hiện tượng thì Kiền là trời, Khôn là đất, Chấn là sấm, Cấn là núi, Ly là lửa, Khảm là nước, Đoài là đầm ao, Tốn là gió. Theo ngũ hành phân biệt, thì Kiền, Đoài là kim; Khôn, Cấn là thổ; Ly là hỏa; Khảm là thủy; Chấn, Tốn là mộc. Theo tám phương thì Kiền là nam, Khôn là bắc, Ly là đông, Khảm là tây, Chấn là đông bắc, Cấn là Tây bắc, Đoài là đông nam, Tốn là tây nam. Kinh dịch nói: trời đất định vị; núi sông thông khí; sấm gió cùng nhẹ (tức tương bạc); thủy hỏa bất tương xạ (nước lửa chẳng diệt nhau); phân biệt thuận, nghịch: tả toàn là từ Chấn đến Kiền, đều được những quẻ đã sinh là thuận; hữu toàn là từ Khôn đến Tốn, gặp những quẻ chưa sinh, là nghịch. Cương vị của quẻ tiên thiên là lấy nghĩa tương đối với nhau, xuất xứ từ chỗ còn, hết của âm dương tự nhiên mà có sự kỳ diệu, vậy lấy dương sinh ở Tý mà cực (hết) ở Ngọ, cho nên chính nam là Kiền: mà Kiền cũng chính là chỗ dương cực (dứt hết) Dương cực thì nhất âm sinh, lấy tây nam là Tốn; Tốn chính là chỗ nhất âm bắt đầu sinh. Âm sinh thì khí hẳn là thịnh mà bao bọc dương. Vậy nên chính Tây là Khảm; mà Khảm cũng là chỗ nhất dương tàng ẩn ở trong mà bao bọc ở trong chỗ thịnh âm. Âm thịnh thì dương suy dần đi, tức là thời kỳ đang bị chiếm lấn, để lập lên Cấn ở Tây bắc. Cấn chẳng phải nhị âm thịnh mà là nhất dương đã bị tiêu dần. Âm sinh ở Ngọ, mà cực ở Tý, cho nên lấy chính Bắc làm Khôn; Khôn chính là âm cực, âm cực thì nhất dương sinh. Cho nên lấy đông bắc làm Chấn; Chấn chính là chỗ nhất dương bắt đầu sinh. Dương sinh thì khí hẳn thịnh, mà bao bọc âm, cho nên lấy chính đông làm Ly; Ly chính là chỗ nhất âm trung tàng (giữa chỗ tàng ẩn) mà bọc ở trong chỗ thịnh dương. Dương sinh thì âm sắp tiêu dần đi, cho nên lấy đông nam làm Đoài, không phải là chỗ nhị dương thịnh mà là chỗ thịnh âm sắp tiêu dần hay sao ? Vậy Kiền, Khôn chính vị ở nam bắc là suy xét ở lẽ âm, dương tiêu trưởng (mòn hết, lớn lên) tự nhiên mà có như vậy. Khảm, Ly chính vị ở đông tây là lấy lý do, xem sự tròn khuyết của mặt trời, mặt trăng ở những ngày hối, sóc, huyền, vọng (ngày 30, mùng 1, 14 và ngày rằm) làm bằng cớ. Tự hạ huyền lúc méo, mờ, dần dần lên, đến khi tròn sáng, là âm tiêu dương trưởng, là từ dưới lớn dần lên. Vì vậy quẻ tả toàn: nhất dương Chấn, chị dương Đoài, tam dương Kiền, lấy cái hình tượng như thế đấy, bởi từ thượng huyền mờ dần dẫn đến khi tối vẹn, là dương tiêu, âm tức (nghỉ). Vì vậy quẻ hữu toàn: nhất âm Tốn, nhị âm Cấn, tam âm Khôn, là lấy có tượng như thế đấy. Sở dĩ như vậy mà dương sáng, âm tối. Cho nên mặt trăng chịu ảnh hưởng ánh sáng của mặt trời. Ngày hối (30) thì ánh sáng của mặt trời khuất ở đằng sau lưng trái đất, nên mặt trăng tối. Hôm rằm (ngày vọng) thì mặt trời đối chiếu vào mặt trăng nên mặt trăng sáng vẹn toàn. Biết cái sự sáng, tối, tròn, khuyết của mặt trăng thì biết là mặt trời ở giữa. Khảm, Ly là ngôi chính vị liệt ở đông, tây. Âm dương tiêu trưởng là lẽ tự nhiên. Người đời chỉ biết quẻ đối đãi của tiên thiên mà không hiểu cái lẽ hay của âm dương tiêu trưởng. Sở dĩ cái thế của lý khí bao quát vô cùng là vậy đó. Quẻ hậu thiên của vua Văn Vương thì lại khác thế. Quẻ lấy lưu hành mà thành, bởi cái độ khí vận chuyển của một năm, biến cái thể hiện của tiên thiên mà hiện ở cái dụng vậy. Thứ tự của quẻ không theo thái cực, lưỡng nghi sinh ra; lại lấy quẻ Kiền thuần dương làm cha, mà sinh ra Chấn là trưởng nam, Cấn là thiếu nam. Lấy Khôn là thuần âm làm mẹ, mà sinh ra Tốn là trưởng nữ, Ly là trung nữ, Đoài là thiếu nữ. Dùng khí để phân biệt âm dương thì Kiền lẻ là dương mà Chấn, Khảm, Cấn có 2 chẵn 1 lẻ cũng là dương. Đây là 3 quẻ bẩm khí ở Kiền là cha. Dương theo hai loại dương, một lẻ làm chủ mà 2 chẵn nghe theo. Vậy nên Kinh dịch nói: quẻ dương nhiều âm: một vua mà 2 dân. Đạo làm người quân tử lấy Khôn có 3 chẵn là âm; Tốn, Ly, Đoài: 2 lẻ 1 chẵn cũng là âm. Bởi 3 quẻ đều bấm thụ khí ở Khôn là mẫu mà ra. Âm theo loại âm: 1 chẵn làm chủ mà 2 lẻ nghe theo. Cho nên Kinh dịch bảo rằng: âm quái đa dương: 2 vua 1 dân. Vì đạo kẻ tiểu nhân, nó phân biệt 8 phương làm hậu thiên, bắt đầu từ ở Chấn, Khảm, Tốn mà chấm dứt ở Cấn: phát sinh ở đầu, thụ thành ở cuối, là lấy tượng 1 năm lưu hành. Cho nên Kinh dịch nói: Đế xuất hồ Chấn, tế hồ Tốn, tướng Kiến hổ Ly, chí dịch hổ Khôn; thuyết hổ Đoài, chiến hổ Kiền, lao hổ Khảm, thành ngôn hổ Cấn, tường nhi luận chi. Chữ vắn tắt quá, nghĩa cũng thâm vui bóng bẩy, khó dẫn giải. Vậy theo ý nghĩa nông cạn tạm giải: “Vua ra tự ở cung Chấn, tế ở cung Tốn, cùng thấy nhau ở cung Ly, làm việc ở Khôn, nói năng ở Đoài, chiến đấu ở Kiền, gian lao ở Khảm, thành sự ở Cấn, hiểu rõ mà bàn ở chỗ đó đây. Quái vị của hậu thiên lấy ý nghĩa ở chỗ lưu hành đó. Quẻ có âm, có dương, có quẻ thuần, quẻ bát, và sự nở của cung vị phù hợp với nhau một mảy không trái lẫn ấy, là xem xét ở chỗ nguyên hóa vận dụng. Đầu tiên là lấy thiên địa 2 cực làm then chốt trọng yếu. Chứ không phải được cái âm dương chí thuần vì cái ấy không đủ. Cho nên ngôi bắc cực trên trời ở Hợi mà Kiền thì lấy thiên tượng thuần dương nên ở tây bắc. Ngôi nam cực dưới đất ở Thân, mà Khôn thì lấy địa tượng thuần âm ở tây nam đó đều là nơi dương cực thiết yếu khứ xứ. Đừng nghĩ rằng những địa điểm đó là vô nghĩa, thật là chí lý. Lấy Kiền, Khôn là tổ tông của âm dương, là phụ mẫu của các quẻ. Vậy nên vua Văn Vương lấy 2 quẻ Kiền, Khôn đặt ở 2 vị trí của 2 cực. Ngoài chỗ này: Khảm là trung nam, Ly là trung nữ, có 2 quẻ không phải là quyền trưởng nam thay cha, trưởng nữ thay mẹ. Nhưng cớ sao lại lấy Khảm, Ly thay Kiền, Khôn của tiên thiên để ở vị chính nam, bắc ? Là vì lấy giữa 2 vị trí làm tiêu chuẩn, để phán âm dương lập ra 8 phương. Nếu không phải là những phân tử bám thụ được chính khí của âm dương thì không thể ở đó được. Vì vậy Ly gốc vốn là Kiền thể của tiên thiên được 1 – âm của Khôn nên nét giữa đứt (trống không). Khảm vốn là Khôn quẻ của tiên thiên được 1 dương của Kiền nên nét giữa liền (trung thực). Cả hai quẻ đều được chính khí của âm dương, khác hẳn với những quẻ trên dưới, bám thụ cả âm dương tạp khí. Văn Vương dụng Khảm Ly làm chính vị ở nam bắc là có đủ thâm ý nghĩa chứ không phải ngẫu nhiên vậy; 2 quẻ đều được khí của Kiền, Khôn chung đúc ở trong. Hào vị tại tiên thiên, thì chính vị ở đông tây. Hậu thiên ở nam, bắc hợp cả Khảm, Ly, tiên, hậu đều phân phối ra đông nam, tây bắc ở bên trong, chẳng cần biết bản thể ở Kiền nam, Khôn bắc ở tiên thiên là vì cớ vậy. Chấn vốn là trưởng nam, được khí của Khảm Ly trước, tại sao không thay kiền ở nam, mà lại ở đông là thế nào ? Thực ra lấy Chấn là 1 – dương mới bắt đầu quẻ đã đứng đầu cả lục tứ, thì cái vị nó ở chỗ đó. Tất cả đứng đầu sơ cả ngũ phương và tứ thời, là con trai trưởng thay cha, để giữ về mùa xuân. Đã lấy con trai trưởng thay cha để đứng đầu thì cũng lấy con gái trưởng thay mẹ để sinh sản. Vì vậy Tốn nối sau Chấn ở đông nam, tức là trưởng nữ giúp trưởng nam, âm mộc giúp dương mộc, hỗ trương hiệp trợ, để sự tự thủy, tự sinh đều được tươi tốt. Đoài là thiếu nữ, vốn kim chất yếu ớt, không thể tự sinh vượng được nên lấy Dậu ở chính tây, để giúp cho cha là Kiền ở bên tả, tức kim nhờ kim giúp; bên hữu nương tựa vào mẹ là Khôn, tức kim nhờ thổ sinh, thì Đoài là như vậy. Cấn là thiếu nam, là thổ mong manh. Nhưng Cấn với Đoài âm tính nhu nhược khác nhau, còn hay giúp người nên việc được phần nào nên lấy Cấn ở đông bắc. Vì khi ấy là thời kỳ cuối trinh, khởi nguyên, khí tiết của thủy sắp hết, mộc sắp nối tiếp theo. Bởi thế nên thủy có cơ hội thư thái nghỉ ngơi; mộc được có thế lực tài bồi sinh trưởng, mà phải ở đông bắc; là lấy thiếu nam giúp trưởng nam, để hoàn thành công việc của một năm. Kinh dịch của vua Văn Vương thật là kỳ diệu. Căn cứ ở tiên thiên mà mở ra hậu thiên để dùng; chứ không dùng tiên thiên, dùng hậu thiên mà thực hợp với cái thể của tiên thiên; tức là địa pháp; gồm cả Hà Đồ phối hợp với Lạc thư. Nhân đó mà lấy mỗi quẻ quản tam phương (3 phương), hợp thành 24 sơn (3x8=24). Vậy dùng hậu thiên, không dùng tiên thiên nhưng tiên thiên vẫn có ở trong. Đây là tiên thiên bát quái tự nhiên đối đãi như phu phụ, ý là: tiên thiên như linh hồn, hậu thiên như thể xác của người; có hồn thì có người, không hồn thì không người. phối hợp với nhau biến hóa vô cùng. Mà là gốc. Khởi hóa của âm dương, muôn đời không thay đổi. Tại sao biết đó là cái nguyên tắc căn bản không thay đổi ? Ta lấy cái tiên thiên mà đối đãi bát quái và bàn về 9 nét mà ứng với 9 cung: như quẻ: Thiên địa Tinh vị có 9 nét; thủy hỏa bất tương xa có 9 nét; quẻ lôi phong tương bạc 9 nét; quẻ sơn trạch thông khí 9 nét. Bốn quẻ mỗi quẻ 9 nét (4x9=36) nét đó ứng 36 cung. Cho nên có 4 câu thơ: Kiền ngộ Tốn thời, vi nguyệt khuất, Khôn phùng lôi địa hiện thiên căn, Thiên căn nguyệt khuất nhàn lai vãng, Tam thập lục cung đô thị xuân Nghĩa là: Kiền gặp cung Tốn thì trăng bị khuất. Khôn gặp cung Chấn thì thấy rõ chân trời.. Cái thiện căn với nguyệt khuất qua lại thông rồi; thì cả 36 cung đều là sáng sủa đẹp như mùa xuân. Vì vậy mà La kinh chứa đựng tất cả, hóa ra 36 tầng; tầng nào cũng ẩn diệu, chữ nào cũng nhập huyền, tức là dấu cái kỳ diệu vào chỗ đen tối. Các thầy địa lý phần nhiều là không nhận xét cái căn nguyên đó, không nghiên cứu cái thể dụng đó, gồm đủ cả cái hay. Tôi nhân đó điền từ số 1 và giải thích minh bạch, tầng thứ, để cho đời đời cùng học, kẻo mất cái công lao khổ tâm của Tiên Thánh đã phát minh TIÊN THIÊN BÁT QUÁI THỨC Kinh dịch nói: Kiền làm quan chủ; Khôn để chứa đựng; Lôi để hoạt động; Phong để phân tán; Vũ để tưới nhuận; nhật để ấm áp; Cấn để ngưng lại, Đoài để vui mừng (Lôi tức là Chấn; Phong tức là Tốn; Vũ tức là Khảm; Nhật tức là Ly)
TẦNG THỨ 2: LẠC THƯ (Tức Hậu thiên bát quái)
Lạc thư là chữ số ghi trên lưng con rùa ở sông Lạc, hiện lên thấy có: số 9 ở đầu (tức đầu đội trời); số 1 ở chân (tức chân đạp đất); số 3 ở bên tả; số 7 ở bên hữu; số 2 và số 4 ở vai; số 6 và số 8 làm chân; số 5 ở trung cung. Đây là Thần quy phụ đô ở trên giữa sông Lạc. Lấy đó mà thành biến vô cùng. 1- Khảm là thủy 2- Khôn là thổ 3- Chấn là mộc 4- Tốn là mộc 5- Trung cung là thổ 6- Kiền là kim 7- Đoài là kim 8- Cấn là thổ 9- Ly là hỏa Bát quái do đó lập ra. Phép làm lịch nhân đó mà có nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát trạch, cửu tứ. Lấy hình tượng để hóa tứ tượng. Thái dương ở số 4, liền với số 9, nên thành ra 4 x 9 = 36. Thái âm ở số 1 liền với số 6 nên thành ra: 4 x 6 = 24; cộng lại (36 + 24 = 60 số) để thành 60 Giáp Tý. Thiếu dương ở số 3 mà liền với số 7: (4x7=28) nên thành ra 28. Thiếu âm ở số 2 mà liền với số 8 (4x8=32) nên thành ra 32. Cộng lại: 28 + 32 = 60; để thành ra 60 hoa Giáp; hợp với lần trước 60, hóa ra 120, là nguồn gốc của 120 phân kim. Còn về sự hóa ra số chẵn, lẻ, âm, dương thì số 1, 3, 5, 7, 9 là số lẻ thuộc về dương; số 2, 4, 6, 8, 10 là số chẵn thuộc âm. Kiền, Khôn, Khảm, Ly là 4 quẻ thuộc dương. Chấn, Tốn, Cấn, Đoài là 4 quẻ thuộc âm. Theo hậu thiên 1 được 9 thành 10; tức hướng Tý, Ngọ (Khảm, Ly) 2 được 8 thành 10, tức hướng Chấn, Đoài (Mão, Dậu) 4 được 6 thành 10, tức là hướng Kiền. Tốn là hậu thiên phu phụ đối đãi. Theo số của Lạc thư thì Khảm 1, Kiền 6, Cấn 8; cộng là 15 số ở phương bắc. Tốn 4, Ly 9, Khôn 2 cộng 15 số ở phương nam. Chấn 3, Tốn 4, Cấn 8 cộng là 15 số ở phương đông. Đoài 7, Khôn 2, Kiền 6; cộng là 15 số ở phương tây. Tổng cộng là 60 số để ứng với 60 long. Do ở nguồn gốc đó mà ra. Tức chính, tư duy và trung ương, cộng thành 60 số, hơn cả 60 số trước lại là 120 phân kim. Ngang 15, dọc 16 cái thành ra 240 phần. Mỗi sơn 10 phần, lấy ứng 240 sơn, để dừng làm việc phân kim, biết số vượng, tướng, cô, hư, sát, diệu. Vẽ Hà đồ thì 1 cùng dòng với 6, nên Giáp và Kỷ hợp; 2 cùng đạo với 7 nên Ất và Canh hợp; 3 với 8 là bạn nên Bính với Tân hợp; 4 với 9 cùng phe nên Đinh với Nhâm hợp; 5 với 10 cùng đường nên Mậu với Quý hợp. Như vậy ta thấy Hà đồ lạc thư vận dụng rất rộng rãi; hễ gặp hợp thì hóa, tất được 5 mà thành 10. Cho nên Giáp Kỷ bắt đầu khởi từ Giáp Tý đến 5 vị gặp Mậu Thìn hóa thổ; Ất Canh khởi Bính Tý tiến 5 vị gặp Nhâm Thìn thì hóa thủy; Đinh Nhâm khởi Canh Tý tiến 5 vị gặp Giáp Thìn thì hóa mộc; Mậu Quý khởi Nhâm Tý tiến 5 vị gặp Bính Thìn thì hóa hỏa. Đó là tương hợp tương hóa, tương tong; nguyên tắc của phép độn ngũ Tý; gặp Dần mà sinh, gặp Thìn mà biến là lẽ thường như: Giáp Kỷ khởi Giáp Tý, đến Dần là Bính hỏa mà sinh ra Mậu Thìn thổ. 4 cung sau cũng vậy, theo đó mà suy ra. Lạc thư 1 được 5 thành 6 nên Giáp với Kỷ hợp; 2 được 5 thành 7 nên Ất với Canh hợp; 3 được 5 thành 8 nên Bính với Tân hợp; 4 được 5 thành 9 nên Đinh với Nhâm hợp; 5 được 5 thành 10 nên Mậu với Quý hợp. (Theo Hà đồ, 1-6 là thủy; 2-7 là hỏa; 3-8 là mộc; 4-9 là kim; 5-10 là thổ) Thiên 1 địa 2; thiên 3 địa 4; thiên 5 địa 6; thiên 7 địa 8; thiên 9 địa 10. Nói về thiên số thì Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là 5 vị dương can. Về địa số thì Ất, Tân, Đinh, Kỷ, Quý là 5 âm can. Theo số đại diện thì thiên số có 25, địa số có 30. Cộng là 55 số rất là tinh vi và diệu dụng vô cùng. HẬU THIÊN BÁT QUÁI Lạc thư đồ thức Vẽ hình để biết lấy làm cung phi hợp độ Bát quái ngũ hành: Ly hỏa – Khảm thủy – Kiền, Đoài kim – Chấn, Tốn mộc – Khôn, Cấn thổ; mỗi quái gồm 3 cung Ngang 15 số, dọc 16 số, tất cả có 240 phân kim
TẦNG THỨ 3: BÁT SÁT HOÀNG TUYỀN
Bài thơ bát sát: Khảm long Khôn thỏ, Chấn sơn hầu cẩu Tốn kê, Kiền mã, Đoài xà đầu Cấn hổ, Ly chư, vi sát diệu Trạch, mộ phùng chi, nhất thời hưu Trên đây là cái sát hàng đầu, mọi cái ác, rất kỵ về việc tạo táng Khảm long: Người ta thường gọi là: bát sát chỉ có 8 cái phương sát; Thìn và Tuất 2 thủy lai, đều kỵ cả. Khôn long kỵ Mão thủy lai; Chấn long kỵ Thân thủy lai; Tốn long kỵ Dậu thủy lai; Kiền long kỵ Ngọ thủy lai; Đoài long kỵ Tị thủy lai; Cấn long kỵ Dần thủy lai; Ly long kỵ Hợi thủy lai; Mão long chỉ có 1 sát (kỵ 1 thôi) Còn về chọn ngày tạo mệnh, thì ở năm, tháng, ngày, giờ kỵ dụng Ví dụ như: Khảm sơn thì kỵ Mậu Thìn, Mậu Tuất. Khôn sơn kỵ Ất Mão; Chân sơn kỵ Canh Thân; Tốn sơn kỵ Tân Dậu; Kiền sơn kỵ Nhâm Ngọ; Đoài sơn kỵ Đinh Tị; Cấn sơn kỵ Bính Dần; Ly sơn kỵ Kỷ Hợi. Đó đều do ở hào quan quỷ của hỗn thiên ngũ hành phạm sát. Nên tạo táng hay sữa chữa mộ ở phương đó cả 2 việc: trước hết đem thái tuế của năm vào trung cung, tiến theo chiều thuận phi luân chuyển; sau lấy nguyệt kiến của tháng và ngày giờ phi ra 9 cung, như gặp Quý Tị, Quý Hợi của năm tháng ngày giờ vào trung cung, thì Mậu Tuất, Mậu Thìn đến nhất bạch, không nên sữa chữa ở cung Khảm và tạo táng ở Khảm sơn. Nếu gặp Kỷ Dậu niên, Kỷ Dậu nguyệt, Kỷ Dậu nhật, Kỷ Dậu thời nhập trung cung, chuyển đến Ất Mão là nhị hắc đáo Khôn sơn thì có thể sửa hay tạo táng ở Khôn sơn được. Nếu như Quý Sửu niên hay nguyệt, nhật, thời nhập trung cung phi chuyển tới Canh Thân, Tân Dậu đáo tam bạch, tứ lục thì không nên tu tạo ở 2 sơn Chấn, Tốn. Tân Tị niên, nguyệt, nhật, thời nhập trung cung, luân chuyển tới Ngọ là lục bạch, đáo Kiền thì không nên tu tạo ở Kiền sơn Quý Hợi niên, nguyệt, nhật, thời vào trung cung, luân chuyển đến Bính Dần là bát bạch đáo Cấn thì không nên tu tạo ở Cấn sơn. Ất Mão niên, nguyệt, nhật, thời nhập trung cung phi chuyển đến Mậu Thìn ở Nhất Thủy Khảm thì không nên tu tạo. Nếu nhập Thái tuế, Đinh Tị là thất xích đoài thì không nên tu tạo ở Đoài sơn. Ất Mùi niên, nguyệt, nhật, thời nhập trung cung phi chuyển đến ở Hợi là cửu tử đáo Ly, thì không thể tu tạo ở Ly sơn được. Đó đều là bát sát quy cung, thì quyết định bách nhật nội, đại sinh hung họa. Rất nên tránh, đó là 8 cung sát nên cẩn thận chớ phạm vào. Bài thơ ca về hồn thiên ngũ hành: Kiền kim, Giáp Tý, ngoại Nhâm Ngọ Khảm thủy, Mậu Dần, ngoại Mậu Thìn Cẩu thổ Bính Thìn ngoại Bính Tuất Chấn mộc Canh Tý Canh Ngọ lâm Tốn mộc Tân Sửu ngoại Tân vị Ly hỏa Kỷ Mão Kỷ Dậu tầm Khôn thổ ất Mùi gia Quý Sửu Đoài kim Đinh Tị Đinh Hợi bình Nghĩa là: Kiền thuộc kim thì Giáp Tý và Nhâm Ngọ 2 phương 7 cung kia cũng theo như thế mà suy luận Không kể chính sát hay bàng sát: chỉ kỵ ở chỗ nạp Giáp, Canh, Thân, Tân, Dậu đồng phạm với Ất, Mão, Cấn, Dần đồng phạm Nhâm Hợi. Sơn và thủy đều có sát. Sơn có sơn sát, thủy có thủy sát. Lập hướng gồm kỵ cả. Cho nên thủy hai dòng chảy lại, nước bên hữu lại thì trưởng tử bại; nước bên tả lại thì con thứ 2 bại; nước chảy ngang trước mặt thì con thứ 3 bại. Xem nước ở trên mặt ruộng sẽ thấy. Hướng kỵ: Khảm long thì kỵ Thìn Tuất hướng Cấn long thì kỵ Dần hướng Chấn long thì kỵ Thân hướng Tốn long thì kỵ Dậu hướng Ly long thì kỵ Hợi hướng Khôn long thì kỵ Mão hướng Đoài long thì kỵ Tị hướng Kiền long thì kỵ Ngọ hướng Đây là hào quan quỷ về hỗn nhiên ngũ hành, cửu tiên thiên bát quái.
TẦNG THỨ 4: TỨ LỘ VÀ BÁT LỘ HOÀNG TUYỀN
Bài thi ca: Canh Đinh Khôn hướng thị hoàng tuyền Khôn hướng Canh Đinh thiết mạc ngôn Tốn hướng kỵ hành Ất Bính thượng Ất Bính tu phòng Tốn thủy tiền Giáp Quý hướng trung ưu Kiến Cấn Cấn phùng Giáp Quý hoa liên liền Tân Nhâm Kiên tổ tối nghi kỵ Kiền hướng Tân Nhâm họa diệt nhiên Bốn cái sát này là tứ lộ đảo lộn đổi bại hóa ra bát lộ hoàng tuyền cũng sát kỵ như nhau. Đó là kỵ ở trên phương vị lập hướng, có nước chảy lại minh đường ngay trước mặt. Khai môn phóng thủy càng kỵ nữa. Lấy tọa sơn khởi lệ, dùng bàn tay mà định 12 vị của hàng trường sinh. Tính đến số mộ, tuyệt là phương tiêu thủy ở đó. Ví dụ như: Giáp sơn Canh hướng, thì Giáp là mộc tương sinh ở Hợi, mộ ở Mùi, tuyệt ở Khôn. Các cục khác cũng thế Đây là mượn hướng thượng, để lấy bản về tọa sơn, như Canh hướng thì tọa Giáp sơn; Đinh hướng thì tọa Quý sơn, đó chính là nghĩa của câu “Kim dương thu Quý Giáp chi linh”, tức là nước ở phương Mùi, Khôn nên chảy đi, không nên chảy lại trước huyệt là thủy triều vào thì bại, hoàng tuyền đại sát, bị yểu vong, cô quả, chỉ lấy tọa sơn làm chủ, không cần bàn tới long tả toàn hay hữu toàn gì cả. Thánh nhân nói: Sinh, vượng, mộ hợp lại mà mạnh, trọng, Quý 3 phong phân biệt là ý nói: 2 phương sinh vượng nên chảy lại; mộ khố phương nên chảy đi. Nếu nên chảy vào mà lại chảy đi ra là phản ! Là sinh, dưỡng thủy khứ thì mạnh phòng, tức là con trưởng bại. Nếu vượng thủy khứ thì trọng phòng, tức con thứ 2 bại. Như đường khứ nên đi mà phản lại là cái thủy ở phương tử, mộ chảy lại vào trước huyệt đó thì Quý phòng tức con thứ 3 bại. Quyết đoán một cục này như thế; 3 cục khác cũng vậy sẽ suy Địa chi hoàng tuyền. Như: Mão Thìn Tị Ngọ hoàng tuyền ở Tốn Ngọ Mùi Thân Dậu thì hoàng tuyền ở Khôn Dậu Tuất hợp Tý thì hoàng tuyền ở Kiền Tý Sửu Dần Mão thì hoàng tuyền ở Cấn Ghi bài thi ca dưới đây: Mão Thìn Tị Ngọ phạ Tốn cung, Ngọ Mùi Thân Dậu không nhược phùng, Dậu Tuất Hợi Tý Kiền cung thị, Tý Sửu Dần Mão Cấn tạo hung. (Chữ phạ là sợ; nhược phùng là nếu gặp; tạo cũng là gặp) Bạch hổ hoàng tuyền: Kiền Giáp Khảm Quý Thân Thìn sơn Bạch hổ chuyển tại Đinh Mùi gian Cánh hữu Ly Nhâm Dần kiêm Tuất Hợi sơn lưu thủy chủ ưu tiên Chấn Canh Hợi Mùi tứ sơn kỳ Thủy nhược lưu Thân khước bất nghi Cánh hữu đoài Đinh Tị kiêm Sửu Phạm trước Ất Thìn bạch hổ khi Khôn Ất nị cung Sửu Mão phạm Thủy lai sát nam định vô no nghi Cấn Bính sáu phùng Ly thượng hạ Tốn Tân ngộ Khảm họa nan đi Thử thị nhị hoàng tuyền chuyển luận Hướng vi chủ kỵ khai môn phóng thủy Giải nghĩa: Kiền Giáp Khảm Quý Thân Thìn thì bạch hổ ở Đinh Mùi Ly Nhâm Dần Tuất Thân Thìn thì bạch hổ ở Hợi Chấn Canh Hợi Mùi Thân Thìn thì bạch hổ ở Thân Đoài Đinh Tị Sửu Thân Thìn thì bạch hổ ở Ất Thìn Khôn Ất Tị Sửu Thân Thìn thì bạch hổ ở Sửu Càn Bính Tị Sửu Thân Thìn thì bạch hổ ở Ly Tốn Tân Tị Sửu Thân Thìn thì bạch hổ ở Khảm Cả hai cái hoàng tuyền trên đây đều lấy hướng làm chủ, kiêng kỵ mở cửa và chỗ nước chảy tiêu đi ở phương đó Tóm lại: Quyết (phép) này lấy hướng thượng để luận định về thủy lai đáo đường, hoặc thủy khẩu chỗ tiêu đi và đường, ngõ đi, rất sợ phạm vào phương kỵ sát đó; sẽ hao người tốn của, tai họa và ly hương biệt tổ; nghiệm lắm ! Cần dựa vào thủy để lấy hướng thì không bị những cái sát đó. Như: Khôn thủy lại thì lập 2 hướng Khôn. Thân mà thu thủy thì tốt. Nếu lập hướng Canh, tức bị phạm hoàng tuyền thì xấu
BÁT LỘ HOÀNG TUYỀN THỨC
TẦNG THỨ 5: CỬU TINH ĐỂ ỨNG TỨ VIÊN CỤC
Cửu tinh là: Tham, cự, lộc, văn, liêm, vũ, phá, phụ, bật; phối hợp với 24 sơn. Dùng địa mẫu quái để định, theo bát quái biến sao: lấy cung đối với cung; Khôn khởi tham lang để phối hướng. Như: Cấn, Bính là tham lang thuộc mộc; cự môn thổ ở Tốn Tân; Kiền Giáp là lộc tồn thổ; Ly, Nhâm, Dần, Tuất là văn khúc thủy; Chấn Canh Hợi Mùi là liêm trinh hỏa; Đoài Đinh Tị Sửu là vũ khúc kim; Khảm Quý Thân Thìn là phá quân kim; Khôn Ất là phụ bật thổ mộc đó vậy. Kinh dịch nói nhìn khí tượng bay lên trời thấy cát hung, ở trên trời thành ra khí tượng, ở dưới đất thành cái hình thể, chiếu xuống 24 sơn Tinh có tốt có xấu; cho nên đất cũng có lành có dữ. Bảo rằng: Trời che chở đất là lấy sao thiên hoàng ở Hợi: chiếu vào tử vi viên ở trên đó và Cấn là thiên thị viên. Tốn là thái vị viên. Đoài là thiếu vị viên. Bốn cục này là 4 vị thiên tinh rất Quý. Thiên Quý chiếu vào Bính, thiên ất thì chiếu vào Tân nam cực chiếu Đinh hợp Cấn. Tốn, Đoài là lục tú. Lại còn thiên bình chiếu vào Tị là đối cung tử vi viên, gọi là đế đô minh đường. Nên Hợi Tị hợp với lục tú gọi là bát Quý. Ly cư chính nam là chính giữa trời đất đều tốt lành; nếu là mọi dương long thì là hạ (dưới kém). Tóm lại: lấy tử vi, thiên thị, thái vi, thiếu vi làm 4 vị thiên tinh Quý. Trong 4 viên này, thì có tử vi, thiên thị, thái vi là 3 viên có cái hiệu nghiệm lập quốc, kiến đô, hợp 3 viên là tốt. Còn như thiếu vi thì không phải đế tòa, là huyền đô không nên lấy dùng. Lấy 24 vị thiên tinh này phối với sơn, sa, thủy ứng nghiệm. Lại còn lấy cái long của tam dương. Lục Kiền là thiên Hợi, địa Cấn, nhân Đinh tài Mão, lộc tồn, mã Bính. Tinh thần là: ngũ cát Đinh, lộc môn Tốn, văn bút Tân, học đường Bính, xá đường Mão, trường bịnh Bính Đinh; kim đới Canh Dậu, Tân; ngân đới, Mão cân; sậu Quý, văn quý Tốn, Tân. Trên đây, trong cái tam cát, lục tú này, thì dương trạch đại vượng, nhân Đinh phú quý, và vững bền lâu dài; còn âm phần không bị mối, kiến, bùn, nước vào quan tài mà phát phúc lâu dài. Đó là cung vị về thiên tinh, sau thủy; tốt hay xấu, do đó mà định đón. Hễ sa Quý thì sinh ra người Quý, sa tiện thì sinh ra người tiện, còn tầm long nhận huyệt ở chỗ quá Giáp, hễ thấy thổ sắc biến khác, thì tìm huyệt ở chỗ quá Giáp đó, như là: quá Giáp là đá thì huyệt cũng có đá, sắc đất màu đỏ là liêm trinh, vàng là cự môn; tất cả đều lấy cửu tinh mà luận định. Xem thổ sắc thì chuyên xem long quá Giáp: chỗ quá Giáp với chỗ huyệt, tính tình cũng tương tự (giống nhau) Phép xem thổ sắc biến thì cần yếu lấy chỗ long nhập thủ ở chỗ quá Giáp, đặt La kinh coi như: Cấn Bính là tham lang, thuộc mộc mà long Dần lại huyệt thì sắc đất hẳn xanh; Tân Tốn là cự môn thuộc thổ, thì sắc đất vàng; Kiền Giáp là lộc tồn thổ, thì chỗ huyệt sắc đất cũng vàng; Ly Nhâm Dần Ngọ Tuất là thuộc thủy, thì sắc đất chỗ huyệt hẳn đen; Chấn Canh Hợi Mùi là liêm trinh thuộc hỏa thì sắc đất chỗ huyệt hẳn đỏ; Đoài Đinh là vũ khúc thuộc kim thì chỗ huyệt đất hẳn đen và trắng; Khôn Ất là phụ thuộc mộc, bật thuộc thổ thì huyệt hẳn sắc đất xanh vàng, lấy màu sắc hồng hoàng, sáng tươi, mềm dẻo thì tốt; đen khô rời vụn thì rất xấu. Thổ phì hậu thì tốt, kiên, ngạnh và đá cứng cũng hung. Trên đây, trước nói về cái công tác dụng của cửu tinh, sau kế tứ viên cửu tinh để ứng với viên cục thiệp tinh của các phương vị ở phân hoạch cung độ của một kinh Càn đều là trong và ngoài chồng, hợp cẩn trọng cả.
PHÉP XEM SẮC ĐẤT
Thiên thôi quan nói: chỗ quá Giáp màu sắc đất tía, thì huyệt cũng tía, hồng (đỏ) là liêm trinh, hoàng (vàng) là cự môn. Thuyết an táng của tiên hiền nói: Bói để tìm chỗ đất táng mộ hay làm nhà ở; xem tốt xấu thì chọn lấy chỗ đất sắc màu tươi sáng có cỏ cây mọc xanh tốt; chỗ ấy trước kia không phải là chỗ sông đầm, thành trì và không có đường đi áp bức thì tốt. Chỗ đất có khí mạch tốt thì hài cốt tốt, vong hồn được yên ổn, con cháu được thịnh vượng. Đó là lẽ cố nhiên, nên người xưa định đặt huyệt chỗ nào thì bên ngoài xem hình thể núi sông, bên trong thì xem màu sắc đất tốt xấu, mới chắc chắn là được. Tốt nhất là được đất chắc mịn, mềm dẻo, sắc tươi sáng, thấy hồng hoàng như viên ngọc; như thớ thịt nửa nạc nửa mỡ là tốt thượng hạng. Nếu khô khan, rời rã như cát sỏi vụn thì xấu, không có khí mạch. Tụ khí là hành kim thì đất trắng, là thủy khí thì đất đen. Mộc khí thì sắc xanh, hỏa khí thì đất đỏ, là thổ khí thì sắc vàng; có nơi đất như cẩm thạch, óng ánh như long não, như ngọc bích là rất quý. Cần phải lựa xem chỗ nào có tính cách đặc biệt, mới là thật tốt. Ví dụ: cả vùng đó đất đều bình thường như nhau, chỉ có 1 chỗ khác sắc, hoặc mọn, tươi hơn là rất tốt. Khi khai đào huyệt thấy có sinh vật như: rùa, cá là tinh túy của thiên địa, là có điềm tốt. Còn nếu thấy rắn, chuột, sâu, bọ, kiến là xấu. Cần phải nhận định rõ ràng kỹ lưỡng.
THAM LANG CỬU TINH THỨC
Tham : Cấn Cô Môn : Tân, Tốn Lộc tồn : Kiền, Giáp Văn : Ly, Nhâm, Dần, Tuất Liêm trinh : Chấn, Canh, Hợi, Mùi Vũ khúc : Đoài, Đinh Phá quân : Khảm, Quý, Thân, Mùi Phụ bất : Khôn, ất phần chú thích thêm, không phải nguyên tác Đây là quẻ địa mẫu dùng phiên quái trong bàn tay, đối cung với cung Càn thì khởi tham lang ở cung Cấn. Xem âm phần, dương trạch: hai nhà thiết kỵ không được phạm vào long thể, phải để dư ra rộng rãi, tự nhiên. Nếu bị phá thương long sẽ sinh ra kiện tụng, hao tài, tổn người; đã kinh nghiệm, thấy nhiều không sai. Nếu không, hãy xem những nhà không biết, khi tạo táng, đào xẻ phạm vào long thể thì sẽ thấy sự tai hại. Ngoài ra còn, ở ngoài chỗ thủy khẩu có những tượng đá đặc biệt, hoặc có những diệu tinh cũng không được phá hoại: phạm đến sẽ bị ảnh hưởng cũng thế.
TẦNG THỨ 6: ĐỊA BÀN CHÍNH TRÂM (CHÂM)
Gọi là tiên thiên kinh bàn (La kinh). Là cái La kinh trước hết, phân ra bát quái để định phương vị, lập hướng, tiên thiên địa chi, chỉ có 12 chi ở 12 vị; gọi là 12 lôi môn làm thi cốt long, lấy chính trâm làm luận định. Tý, Ngọ, Mão, Dậu là ngôi chính của trời đất; Dần, Thân, Tị, Hợi là nơi trường sinh của ngũ hành; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là chỗ ngũ khí quy nguyên (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ trở về gốc) cho nên hậu thiên vận dụng chính tram; thì chi nào cũng có chính đính (chơn chính). Địa chị thuộc âm tĩnh mà không động. Hậu thiên thêm vào tứ duy và bát can; tứ duy là Kiền, Khôn, Cấn, Tốn; bát can là Giáp, Canh, Bính, Nhâm, Ất, Tân, Đinh, Quý thuộc về dương và chủ động, lấy ở giữa ranh giới của 12 chi dương ? Là lúc khí hậu thay đổi ở khoảng đó. Nên ở khoảng thiên địa là có âm, cần phải có dương, tức như trong âm chi có dương can không thể hỗn độn được; âm nhờ dương nên không bị hư, dương nhờ âm nên không bị cô (lẻ đơn). Hai khí tự nhiên có sự hóa sinh, sinh hóa huyền diệu. Chế tạo ra chính trâm cũng không ngoài sự biến hóa của 12 chi; địa bàn vốn làm gốc rễ của trung tâm, phùng trâm và xuyên sơn, thấu địa. Những ngôi sinh vượng hưu cửu của ngũ hành, hoặc thường lệ của âm dương thuận, nghịch di chuyển tự ở đây (12 địa chi) mà suy ra. Trên có thể phân độ của các vị tinh tú, dưới có thể hoạch định được địa phận của các phương, rất huyền diệu và đầy đủ. Người trí thức nên thuộc hiểu cái đó. Đời sau người ta dung chính trâm phần 24 sơn là gốc do vua Văn Vương hoạch định bát quái, mỗi quái quản tam sơn (3 phương vị): - Tý, Ngọ, Mão, Dậu ở 4 ngôi chính; tức là Khảm, Ly, Chấn, Đoài là bốn quẻ tang (ẩn giấu) - Kiền, Khôn, Cấn, Tốn ở bốn phương bàng (tứ duy) là bốn (4) hiển (hiện rõ)
ĐỊA VỊ CỦA TỨ CHÍNH VÀ TỨ QUY BÁT QUÁI CHÍNH VỊ PHỤ VỊ TẢ HỮU THUỘC QUẺ Khảm: chính bắc Nhâm Quý Tàng Ly: chính nam Bính, Đinh Tàng Chấn: chính đông Giáp, Ất Tàng Đoài: chính tây Canh, Tân Tàng Kiền: tây bắc Tuất, Hợi Hiển Khôn: tây nam Mùi, Khôn Hiển Tốn: đông nam Thìn, Tị Hiển Cấn: đông bắc Dần, Sửu Hiển Trong đây gồm đủ cả chính vị thiên, ngang trời dọc đất đều thấu suốt hết cả, dung để cách long, định huyệt, lập hướng, thừa phong, tiêu sa, nạp thủy, cất nhà, an phần, trọn phối âm dương, tác dụng rất rộng rãi, vô cùng. Trong này, bày lục Giáp tại bát môn thì suy ra ngũ vận lục khí, ngũ hành điên đảo; còn dùng nhiều việc khác vô cùng vậy. Cổ nhân có câu: “Thác đắc ngũ hành điên đảo điên, tiên thị nhân gian địa trung tiên”, nghĩa là: biết được phép của ngũ hành xoay chuyển xuôi ngược, đảo lộn, tức là Tiên trong thế gian rồi. Biết thì làm được hợp long, huyền quang thông khiếu. Phép dùng thì trước hết đặt La kinh trên long tích (sông đất rõ lên) chiều phân biệt 4 cái đại thủy khẩu, rồi sau lấy đến tả toàn, hữu toàn và luận định: Thánh hiền xưa nói: “Ất Bính giao nhi su Tuất Tân Nhâm hội nhi tụ Thìn Sửu ngưu nạp Canh Đinh chi khí Kinh dương thi Quý, Giáp chi linh” Bốn câu quyết này bàn về lý khí của tiên thiên, hậu thiên; cần nhớ hiểu tường tận về 4 cái thủy khẩu của 4 cục Ví dụ: 1-Như phương Mão, thủy từ Ất chuyển ngược lại là hữu toàn tức thì Ất thuộc âm mộc, thì phải phối hợp với thủy ở phương Bính là dương hỏa rồi chạy ra phương Tuất là thủy khẩu của hỏa cục, thì được là phu thê tương phối (vợ chồng sánh nhau). Nếu phối hợp với thủy ở phương Canh chảy ra phương Sửu, hoặc phối với Giáp chảy ra Mùi, hoặc phối với Nhâm chảy ra Thìn thì phạm về bệnh dương sai, ví như nam nữ gặp nhau ngoài đường mà nhận càn làm chồng làm vợ vậy. 2-Như phương Ngọ, thủy từ Bính thuận qua tả toàn, tức thì Bính là dương hỏa, thì phải phối hợp với thủy ở Ất là âm mộc rồi chảy ra Tuất là thủy khẩu; thế là phu thê tương phối thì tính dùng tốt. Nếu Tân thủy mà xuất Thìn, hoặc phối với nước ở Quý mà ra Mùi, hay phối Đinh mà ra Sửu, thì ví như gặp người đi đường mà nhận bậy làm vợ; vậy bảo là phạm bệnh âm thác (sai âm nhầm) Đoạn 1 và 2 là nghĩa của câu “Ất Bính giao nhi su Tuất” 3-Như phương Ngọ mà thủy từ Đinh quay ngược lại là hữu toàn, vì Đinh là âm hỏa thì phải phối hợp với Canh, là dương kim, mà ra Sửu là thủy khẩu thuộc kim cục, thì được phu thê tương phối là đúng cách. Nếu phối bính xuất Tuất phối Giáp xuất Mùi, phối Nhâm xuất Thìn thì ví là gặp người ngoài đường mà nhận liều làm chồng, là phạm về bệnh dương sai 4-Như phương Canh quay thuận về Dậu là tả toàn thủy; vì Canh là dương kim thì phối hợp với Đinh là âm hỏa xuất Sửu là được phu thê tương phối. Nếu phối xuất Thìn hoặc phối quý xuất Mùi, hay phối ất xuất Tân là phạm về bệnh âm thác, như ví gặp người ở ngoài đường mà bảo láo là vợ Đoạn 3 và 4 là ý nghĩa của câu “Sửu ngưu nạp Đinh Canh chi khí” 5-Như phương Tân quay ngược lại Dậu là hữu toàn thủy, vì Tân là âm kim, phải phối với Nhâm là dương thủy mà xuất Thìn là được với sánh với chồng. Nếu sánh với Canh mà chảy ra Sửu, hoặc sánh với Giáp ra Mùi, hay sánh với Bính mà ra Tuất, là phạm bệnh dương sai (tiện vi ngộ chi phu) ví như chồng gặp nhau ngoài đường 6-Như ở Nhâm quay thuận đi phương Tý, là tả toàn thủy, vì Nhâm là dương thủy thì phải sánh với Tân là âm kim mà ra Thìn, là được phu thê tương phối. Nếu phối với Đinh ra Sửu, hoặc phối với Quý xuất Mùi, hay phối Ất xuất Tuất là phạm bệnh âm thác, nên bảo là vợ lầm bậy gặp ngoài đường. Đoạn 5 và 6 giải nghĩa câu “Tân Nhâm hội nhi tụ Thìn” 7-Như từ Quý quay ngược lại phương Nhâm Tý, là thủy hữu toàn, vì Quý là âm thủy, thì phải phối với Giáp là dương mộc và xuất khứ Mùi khẩu; là thê giữ phu tương phối, thì mới đúng cách. Nếu phối Canh xuất Sửu, hoặc phối Bính xuất Tuất, hay phối Nhâm xuất Thìn là phạm bệnh dương thác, nên như lộ ngộ chi phu. 8-Khứ thủy từ Giáp chảy thuận về Mão là tả toàn; vì Giáp là dương mộc, thì phải phối với Quý là âm thủy và xuất Mùi khẩu, là được phu thê tương phối. Nếu phối Tân xuất Thìn, hoặc phối Đinh xuất Sửu, phối Ất xuất Tuất; tức phạm lối âm thác, nên bảo rằng: gặp người đi đường mà nhận xằng là vợ mình Đoạn 7 và 8 giải ý nghĩa câu: “Kinh dương thi Quý Giáp chi linh” Bốn cái đại cục này là lấy cái thủy nhập đường và xuất khứ khẩu (nước chảy lại minh đường và chảy ra thủy khẩu), để phối hợp với long và tọa sơn. Còn về tả toàn, hữu toàn của long nhập thủ, thì cũng lấy cái quay thuận, quay nghịch như phép lệ của thủy. Ví dụ: - Như 5 cái long (mạch) nhập thủ là: Dần, Giáp, Mão, Ất, Tốn. 5 phương thì lấy Giáp, mộc là tả toàn long tức là trường sinh tại Hợi tính thuận đến Nhâm, lần chuyển đi thì vượng tại Mão, mộ tại Mùi. Nếu ở Ất quay ngược lại thì lấy ất mộc là hữu toàn long, tức là trường sinh tại Ngọ, tính nghịch lại Tị, lần chuyển thì vượng tại Dần, mộ tại Tuất. - Như 4 cái long nhập thủ là Tị, Bính, Ngọ, Đinh; thì Bính hỏa là tả toàn long, tính thuận là trường sinh tại Dần, vượng tại Ngọ, mộ tại Tuất. Nếu từ Đinh quay ngược thì lấy Đinh là âm hỏa làm hữu toàn long, tính ngược lại thì trường sinh tại x, vượng tại Tị, mộ tại Sửu. - Như 5 cái long nhập thủ là Thân, Canh, Dậu, Tân. Kiền là tả toàn thì lấy Canh là dương kim thì trường sinh tại Tị, vượng tại Dậu, mộ tại Sửu. Nếu là hữu toàn long, thì lấy Tân là âm kim; tức tính trường sinh tại Tý, vượng tại Thân, mộ tại Thìn. - Như 10 cái long nhập thủ là: Hợi – Nhâm – Tý – Quý (thủy). Khôn – Càn – Thìn – Tuất – Sửu – Mùi (thổ) 10 phương, thì tả toàn là Nhâm thủy. Mậu thổ thì tính trường sinh tại Thân, vượng tại Tý, mộ tại Thìn. Hữu toàn thì lấy Quý âm thủy tính trường sinh tại Mão, vượng tại Hợi, mộ tại Mùi. Kỷ là âm thổ thì tính trường sinh tại Dậu, vượng tại Tị, mộ tại Sửu. Mậu Kỷ nhập vào Khôn Cấn; Mậu nhập vào Khôn, Kỷ nhập vào Cấn. Phép này là lấy trong long nhập thủ, lấy thủy xuất mộ khố mà luận định phương vị, lập hướng, phải theo đúng như thế mà tiêu sa, nạp thủy. Các bậc Tiên Hiền đã kinh nghiệm xác nhận, tường tận minh bạch, hậu học nên thận trọng chớ có làm sai lầm.
ĐỊA BÀN CHÍNH TRÂM THỨC
Chính trâm là kim đỏ ở địa bàn chỉ giữa Ngọ ở phương nam; kim đen chỉ vào giữa chữ Tý ở phương bắc. Lấy bát can thì theo phương Lộc, tứ duy thì theo phương Mộ. Tám quẻ gồm 8 cung, mỗi quẻ quản 3 phương; chỉ có Kiền, Khôn, Cấn, Tốn là 4 quẻ chính, tức là tứ trụ quái.
TẦNG THỨ 7: ÂM DƯƠNG LONG
Xuất tự tiên thiên bát quái, nạp Giáp thủ phối. Kiền nạp Giáp, Khôn nạp Ất, Ly nạp Nhâm và Dần, Tuất, Khảm nạp Quý, Thân, Thìn là thủy âm; đó là 12 dương long hợp với 4 quẻ dương. Cấn nạp Bính, Tốn nạp Tân, Chấn nạp Canh, Hợi, Mùi, Dậu, Đoài nạp Đinh, Tị, Sửu là kim đó là 12 âm long hợp với quẻ âm. Lấy 24 sơn, âm dương, đều một nửa. Dương long dùng khuyên trắng là dương hư, mà sáng cỡ vậy. Âm long dùng điểm đen là âm thực mà tối cỡ vậy. Chia ra 12 khuyên trắng, 12 chấm đen là âm dương phân biệt, dùng để xét về long: khi âm long chuyển động thì đốt này đến đốt khác đều là âm; âm long thì lập âm hướng, thu âm thủy thì tốt lành, lẫn vào dương thì độc. Dương long chuyển hoán đốt này, đến đốt kia đều là dương; dương long đáo đầu thì lập dương hướng, thu dương thủy thì lành, lẫn âm thì xấu. Nhận rõ được long thì Quý tiện tự phân biệt; dương long không quý mà âm long thì rất quý. Âm long quý là lấy cái tam cát lục tú tại tứ viên thiên tinh chiếu xuống có ý nghĩa là lấy 9x6 xung hòa. Xét rõ long mà thu nạp thủy là lấy tam cát lục tú hết thảy ở trong âm long; Hợi, Chấn, Canh là tam cát; Cấn, Tốn, Bính; Tân, Đoài, Đinh là lục tú, lai long và tọa nguyệt đều là đại quý địa, thượng hạng. Tất cả dương long đều là hạ cấp. Lại Công nói: không nên chấp nhất để mà bàn chi cốt lai long tú mỹ; lấy cái long chân huyệt tích cũng xuất phát phú quý. Sở dĩ bàn về long, lấy Tịnh âm, Tịnh dương, xét cái đại lược của 24 long lấy số nhiều hay ít ở tiết hành long bàn về hướng và tiêu thủy, thủy lộ khứ, lai đai, tiêu vi v.v… Nếu cố chấp 1 cái bế tắc, mà cái khởi cho thông thì dặn là đại địa, kỳ cục, tất nhiên cũng bị mất cái hay đi, mà những hào ở trong bát quái, cũng do đó mà biến đổi. Ví dụ: như quẻ Kiền là thiên phụ; Kiền quái thì có 3 nét liền. Lần thứ nhất biến nét trên đứt thành quẻ Đoài (thượng khuyết). Lần thứ hai biến hào giữa thành quẻ Chấn (ngưỡng x) Lần thứ ba biến hào dưới thành quẻ Khôn (lục đoạn). Lần thứ 4 biến hào giữa của quẻ Khôn thành quẻ Khảm (trung mãn). Lần thứ 5 biến hào trên của quẻ Khảm thành quẻ Tốn (hạ đoạn). Lần thứ 6 biến hào trung của quẻ Tốn thành quẻ Càn (phúc uyển). Lần thứ 7 biến hào dưới của quẻ Càn thành quẻ Ly (trung hư). Lần thứ 8 biến hào giữa của quẻ Ly thành quẻ Kiền (tam liên), lại trở về bản quái, tức quẻ Kiền cũ. Ngoài ra bảy quẻ kia đều theo như thế mà biến. Phép này là gieo quẻ biến: khởi tham lang; ví dụ: Kiền long thì cung Đoài là biến quái thứ nhất, tức khởi tham; tại Chấn là cự; Khôn là lộc, Khảm là văn, Tốn là liêm, Cấn là vũ, Ly là phá, Kiền là phụ Càn ( ); Đoài ( ); Chấn ( ); Khôn ( ); Khảm ( ); Tốn ( ); Cấn ( ); Ly ( ); Càn ( ). Khôn long theo thì khởi từ Cấn là tham, Tốn là cự, Kiền là lộc, Ly là văn, Chấn là liêm, Đoài là vũ, Khảm là phá, Khôn là phụ; đó là lấy trên long, tìm tam cát lục tú theo phép như thế. Thủy pháp (xem thủy tiêu, thủy khứ) thì theo hướng thượng khởi phụ, vũ, phá, liêm, tham, cự, lộc, văn. Ví như: ất hướng thì Khôn là phụ, Khảm là vũ, Đoài là phá, Chấn là liêm, Ly là tham, Kiền là cự, Tốn là lộc, Cấn là văn. Lấy phụ, vũ, tham, cự là 4 cái cát (lành); tránh phá, liêm, lộc, văn là 4 cái hung (dữ) trước lấy cửu tinh là tứ viên trung làm thiên tinh tối quý; thiên quý chiếu Bính, thiên ất chiếu Tân, nam cực chiếu Đinh, thiên hình chiếu Tị là đối cung với tử vi viên gọi là đế tòa minh đường. Cho nên Hợi, Tị hợp với lục tú gọi là bát quý (tám cái quý). Ly ở giữa phương nam là “Thiên địa chi trung”. Ly Ngọ âm với Nhâm, vậy mà mọi tinh (mọi sao) đều ủng hộ vào nhau, nên gần đế viên (tử vi viên) cũng là rất quý. Chấn nạp Canh, ứng liêm trinh. Người xưa bảo: “Đoạt võ chi địa” là đất đoạt cả võ quyền. Vì Hợi, Chấn, Canh là tam cát; Khảm nạp quý ở chính bắc. Ngoài ra như Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và mọi dương long đều là kém hơn. Âm long thì phát phúc lâu dài, dương long thì phát phúc gần gần (Âm long phát chậm bền; dương long phát mạnh nhưng chóng tan) Nhưng cũng chớ câu luận, nếu dương long được cục. Chấn, cũng là phát phúc bền lâu. Táng là âm có lục tú, dương cũng có lục tú, như là: Kiền quái thượng hào nhất biến vi Đoài; Khảm quái thượng hào nhất biến vi Tốn; Ly quái thượng hào nhất biến vi Chấn; Khôn quái thượng hào nhất biến vi Cấn. Ở trong bát quái tìm Chấn là tam cát, Kiền, Khôn, Khảm đều là lục tú. Bát quái thì mỗi vi viên quản 3 sơn lấy mạch (long) làm chủ, theo sao biến đổi của đối cung phiên đi được tham, cự, vũ. Là dương quái lục tú thuộc âm, âm quái lục tú là dương. Sở dĩ âm dụng, dương triều, dương dụng âm ứng làm chuẩn đích. Nói Hợi, Chấn, Canh là tam cát hướng, thực ra là lấy thiên tinh mà suy đó. Hợi ứng bắc cực là tử vi viên; là chủ cả sinh vật một bàn, thu cộng cả sinh vật trong một bàn. Cho nên Giáp Tý Khôn bắt đầu là Tý mà chấm dứt ở Hợi; Hợi quý không chấm dứt ở Kiền mà chấm dứt ở Hợi là chỗ ty sở của thiệp để hoàn thành mọi việc là cái sơn tốt đệ nhất của 4 sơn đó. Chấn là “dương quân thăng điện” tức là nơi vua ra triều, là cửa ngõ của mặt trời là chức vị chủ tể giúp sự sinh trưởng của vạn vật. Kinh dịch nói: Thượng Đế ra ở cung Chấn, chuyên giữ quyền hành của tạo hóa; sinh khí từ đây ra cho nên lấy làm tốt lành. Canh là ngôi của Hoàng Hậu là cửa ngõ của mặt trăng, là chức chủ của ty sở, hoàn thành sự vụ. Kinh dịch nói: Ngôi Hoàng Hậu ở Canh là âm, trong 3 ngày, phối hợp với ngôi Hoàng Đế là dương. Thực là hóa khí đó, cho nên lấy làm tốt, Chấn và Canh, 2 ngôi ấy là chỗ họng, lưỡi của Thiên Đế, thay Thiên đế để điều khiển như là tể tướng thay vua, thi hành pháp lệnh. Được 3 cái long ấy, thì không khác gì vua và 2 vị chúa tể, phụ nguyên huân, là 3 ngôi sao quý trên hết thảy; thứ nhì là cũng lấy 6 vị khanh tướng; tức là lục tú: Cấn, Bính, Tốn, Đinh, Đoài, Tân là những phương hướng rất tốt đó. Long thì lấy xung hợp làm tốt; binh thì lấy được tượng phối làm tốt; đó là 6 ngôi được thiên tinh đối chiếu xuống như: Cấn hợp với thiên thị viên, Bính lấy thái vi phối, Tốn được thái ất chiếu, Tân thì lấy thiếu vi phối, Đoài là thiếu vi tử phủ; Đinh thì lấy nam cực phối, đó là được hợp với tinh anh của thiên tinh ở trên. Vậy nên được làm cái vị tốt. Nếu được quý khí của 6 long, hình hợp là thượng sách, quyết anh xuất tam khanh công, lục khanh, quan quý; thứ cách sanh ra nhân tài siêu quần, quán thế, là lấy 6 ngôi đó kết nạp, theo bát quái suy phân, thì cái tốt đẹp là được âm dương xung hòa chính là ý nghĩa phu phụ phối hợp, như là: Cấn, Tốn, Đoài 3 quẻ, trừ cái trung hào là thế, còn 2 hào thượng hạ đều là nhất âm, nhất dương tương phối, là nghĩa đó. Cho nên những chữ can kết nạp, hợp với lục tú, như 4 quẻ Kiền, Khôn, Khảm, Ly; trừ nét giữa (trung hào) là bản thể, còn những nét trên và dưới đều là cô dương, hoặc hư âm, không có nghĩa phối hợp. Vậy nên không ở vào hàng tam cát hợp lục tú, mà quẻ Chấn hào trên, hào dưới đều có xung hòa: nên Hợi, Chấn, Canh, 3 long cũng là tam cát. Bài thi ca về xem đất điểm huyệt: Âm dương nhị tự, tối nan minh Thủy thức kỳ trung, tạo hóa tinh Âm nhũ khắp như an tử dạng Dương oa thiên tự, nữ nhân hình Thị nam âm nhũ, hưu thương thủ Thị nữ dương oa, mạc phá thần Thổ tú, la văn, lai Chấn huyệt Thiên cơ đáo thử, hợp Kiền Khôn. Giải nghĩa: Hai chữ âm dương này hiểu rõ được rất là khó; mấy ai biết được cái tinh khí bên trong của tạo hóa ? Như là: cái hình âm nhũ (cái đầu vú đàn bà) trong như cái hình dạng cái dương vật của đàn ông; cái hình dương oa (chỗ đất lõm) nó giống hệt cái vật hiếm của đàn bà (âm hộ). Nó giống như là cái âm nhũ của đàn ông thì chớ phá hoại, sẽ làm tổn thương tích vào đầu chỗ cùng của nó; nó như cái dương oa của đàn bà, thì chớ đừng phá vỡ cái môi của nó thè ra. Còn như cái thổ tú và la văn, là những tinh phong nó ứng ở chung quanh là cái chân giữ của huyệt; tức là cái then chốt của thiên cơ, đến đó để hợp cài lại cái sinh khí của Kiền Khôn (tức là thiên địa phối hợp) Sinh khí thì lấy cái long, nó chuyển động là sinh long; phải lấy một đoạn nhập thủ làm: lĩnh đường khí, tức là chỗ tóm thắt nhỏ lại gọi là thúc khí đó. Lấy thủy làm cốt yếu; thủy thì lấy chỗ chảy lai, chảy đi ở trước mặt huyệt làm đầu nguồn, cung vị tiêu nạp, phải xem cả cái nước ở bên tả lẫn bên hữu và đằng trước, phía sau làn thủy Tinh âm, Tinh dương, là hợp cục hay phá cục, để kinh nghiệm sinh khắc.
THẬP NHỊ ÂM DƯƠNG LONG THỨC
Hợp Kiền bàn thì có khuyên trắng, điểm đen là Kim tự bàn; ví chân bàn thì không có khuyên trắng, chấm đen; có 12 chữ đỏ là hắc tự bàn.
TẦNG THỨ 8: NGŨ HÀNH CHÍNH? LUẬN VỀ LONG SỞ THUỘC Hợi, Nhâm, Tý, Quý ở phương bắc thuộc về thủy; Dần, Giáp, Mão, Ất, Tốn ở phương Đông thuộc mộc; Tị, Bính, Ngọ, Đinh ở phương nam thuộc hỏa; Thân, Canh, Dậu, Tân, Kiền ở phương Tây thuộc kim; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Khôn, Cấn ở 4 phương góc thuộc thổ. Đó là lão tổ tông của ngũ hành. Ngũ hành là cương lĩnh (đầu mối) của âm dương là quyền hành (cán cân) của tạo hóa, suốt từ xưa đến nay những bậc triết sĩ xoay trời chuyển đất vận dụng Kiền, Khôn, những hạng anh hung vận trù vĩ đại, cao nhi tri vãng, tri lai, tri cơ, chi biến, phóng thủy, bát sa, biến phương, lập hướng v.v… chưa có ai bỏ ngũ hành đó mà vận dụng bằng cái khác. Có những tên gọi: 1-Ngũ hành; 2-Ngũ sự; 3-Bát chính; 4-Ngũ kỷ; 5-Hoàng cực; 6-Tam đức; 7-Kê nghi; 8-Thứ trung; 9-Ngũ phúc; 10-Lục sự. Hành mộc ở phương đông chủ về nhân; hành kim ở phương Tây chủ về nghĩa; hành thủy ở phương bắc chủ về trí; hành hỏa ở phương nam chủ về lễ; hành thổ ở trung ương chủ về tín; vì vậy 24 sơn trong la bàn thì thủy hỏa ở 4 sơn, kim mộc đều ở 5 sơn, chỉ có thổ ở 6 sơn. Thổ châu trung ương là sơn quý nhật. Vậy nên vạn vật sinh ra ở trong thổ mà la kinh gồm tóm có hơn 30 tầng chẳng hay bỏ ngũ hành mà dùng cái khác được. Lại theo Hà đồ long mã hiến thụy hóa ra thiên can, địa chi là nguồn gốc ở đó vậy Thiên: 1 sinh ra Nhâm thủy; Địa: 6 quý hoàn thành; Địa: 2 sinh Đinh hỏa; Thiên: 7 Bính hoàn thành. Thiên: 3 sinh Giáp mộc; Địa: 8 ất hoàn thành; Địa: 4 sinh Tân kim. Thiên: 9 canh hoàn thành; Thiên: 5 sinh mậu thổ; Địa: 10 kỷ hoàn thành; đó là 10 can 1-6 ở dưới mà sinh ra Hợi, Tý thủy; 2-7 ở trên mà sinh ra Tị, Ngọ hỏa; 3-8 ở bên tả mà sinh ra Dần, Mão mộc; 4-9 ở bên hữu mà sinh ra Thân, Dậu kim; 5-10 ở giữa mà sinh ra Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thổ. Đó là 12 chi Bậc Thánh Hiền nhân bát quái này mà suy ra thiên thời, dùng địa chi để phối với thiên can; là lấy thiên: 1 sinh thủy mà lấy Khảm là ngôi vị của thủy, nên ở chính bắc; Quý được cái âm thủy nhu của địa huyệt nên quý ở sau Tý. Thủy không ngừng thì chảy đi, mà không trở lại nên phải lấy thổ để ngăn lại thì mới có thể sinh vật; Sửu là thổ nhu, nên Sửu ở sau Quý, Cấn là sơn và là thổ cương, nên Dần ở sau Sửu mà ở phương đông bắc, đó là thay Chấn để sinh trưởng vạn vật. Thổ hợp lại mà hóa ra khí để sinh mộc. Dần là tạp mộc nên Dần ở sau Cấn. Giáp được tam dương mộc là cường của thiên, nên ở sau Dần. Chấn là ngôi của mộc, vậy Mão ở chính đông ất được khí âm của địa; ất là mộc nhu nên ở phía sau Mão. Mộc phải cần thổ mới tươi tốt; Thìn là ngôi chính khí của thổ, nên Thìn ở sau ất là mộc tạp dương; mộc không vượng thì không thể sinh hỏa nên Tốn là vượng mộc mà ở sau Thìn; vượng dứt thì phải nhờ để sinh vậy lấy hỏa sinh. Tị là sơ khí của hỏa, nên Tị ở sau Tốn, Bính được hỏa của thiên: 7 là dương cương nên Bính ở sau Tị. Ly là vị chính của hỏa nên ở chính nam. Đinh được âm khí của địa: 2 là hỏa nhu nên Đinh ở sau Ngọ; hỏa vượng thì hẳn là ngưng lại để sinh thổ nên Mùi ở sau Đinh. Khôn là thể của thổ là chính khí của thổ, nên Khôn ở sau Mùi, thổ vượng tất sinh kim Thân là sơ khí của kim, nên Thân ở sau Khôn. Canh được dương khí của Thiên: 9 là cương kim, nên Canh ở sau Thân. Đoài là vị trí của kim nên Dậu ở chính Tây, Tân được âm khí của địa: 4 là nhu kim, nên Tân ở sau Dậu; kim không thổ thì không thành kim; Tuất là phương chính của thổ nên Tuất ở sau Tân. Kim là tạp khí của âm; nếu kim không thịnh thì khổng thể hóa được, nên Kiền là vượng kim mà ở sau Tuất, cực vượng mà hóa thành, sở dĩ sinh thủy vậy; Hợi là sơ khí của thủy nên Hợi ở sau Kiền. Nhâm được dương khí của thiên: 1 là thủy cương nên Nhâm ở sau Hợi, do đó mà 24 vị có định cục vậy. Tôi thường đọc Kinh dịch nên biết sự vận chuyển của trời đất và thứ tự hành độ của các vì tinh tú không sai. Người ta nói: “Kiền ngộ nạp Tốn quan nguyệt quật, Khôn phùng Chấn dĩ Kiền thiên căn”. Nguyệt quật là lỗ hang của mặt trăng, thiên căn là gốc rễ của trời. Xem đó có thể thấy dương sinh ở Ngọ, âm sinh ở Tý; âm dương ở đúng chỗ thì 4 mùa lưu hành muôn vật sinh trưởng sáng tỏ vậy. Phương bắc khí cương nên có vẻ nghiêm khắc, dữ dội; phương nam khí nhu nên có tính hòa hoãn (ôn hòa). Vì vậy đất ở phương nam lấy oa, kiềm, nhũ, đột làm bằng cớ. Thế ở phương bắc thì lấy gò đống đột cao hậu làm chuẩn đích.
CHÍNH NGŨ HÀNH THỨC
Đây là địa lý gia luận về sơn khắc, vong mệnh, kỵ nạp âm chính là thế vậy. Chính ngũ hành xuất ở Hà đồ: 1-6 ở dưới sinh ra Hợi, Tý thủy. Thiên 1 sinh ra Nhâm thủy; địa 6 hoàn thành ở Quý; thiên 1 sinh Khảm thủy mà địa 6 hoàn thành ở Kiền. Đấy chỉ là một cục, các cục khác cũng thế sẽ suy ra.
TẦNG THỨ 9: SỬ DỤNG VỀ KIẾP SÁT BÀI QUYẾT CA
Tốn, Mùi, Thân sơn Quý Kiền tàng Tân, Tuất cư Sửu, Canh mã hương Chấn, Cấn phùng Đinh, Giáp Kiền Bính Nhâm hầu kiến thỏ, Bính Tân phương Khảm Quý phùng xà, Tị Ngọ kê Đinh Dậu phùng Dần, Khôn Hợi ất Long Hổ ngộ dương, ất hầu kiếp Tê ngưu long vị vĩnh bột lập Giải nghĩa: Như: Tốn, Mùi, Thân 3 sơn thì kiếp sát ở Quý – Tân, Tuất 2 sơn này thì kiếp sát ở Sửu, Canh thì ở Ngọ - Chấn, Cấn sơn thì kiếp ở Đinh, Giáp sơn thì kiếp ở Bính – Nhâm sơn thì kiếp ở Thân. Kiền sơn thì kiếp ở Mão, Bính sơn thì kiếp ở Tân – Khảm, Quý 2 sơn thì kiếp sát ở Tị; Tị, Ngọ 2 sơn thì kiếp cùng ở Dậu – Đinh Dậu 2 sơn thì kiếp cùng ở Dần; Khôn, Hợi 2 sơn kiếp cùng ở ất – Thìn, Dần sơn kiếp cùng ở Mùi; ất sơn thì kiếp ở Thân – Sửu sơn thì kiếp sát ở Thìn. Tóm lại là phương kiếp sát, chỉ lấy tọa sơn (là phương ở sau lưng, của gối đầu vào) mà bàn về tiêu, nạp chứ hướng sơn không liên quan gì đến. Chỉ kỵ có 1 sơn thôi như ngồi ở Tốn sơn hay Mùi sơn, Thân sơn mà phương quý có sơn sa cao, mà nghiêng ngả, lệch vẹo, hoặc vỡ lỡ, hoặc núi đá gồ ghề, lởm chởm là rất kỵ. Nếu ngay ngắn, tròn đẹp thì không sợ kỵ, các sơn khác cũng vậy KIẾP SÁT BÀN THỨC Đây chỉ thấy chép ở Kim tự bản, các sách chưa thấy chép, nên nhiều người không biết. Tôi được thầy truyền riêng cho, nhưng không nỡ giấu kín, e có hại cho đời sau nên viết ra để phổ biến cho mọi người cùng biết.
TẦNG THỨ 10: XUYÊN SƠN 72 LONG
Người xưa dùng 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa. Xuyên sơn là: Xét định cái long dẫn vào huyệt, nó xuyên đúng chữ nào thuộc con gì của vòng Giáp Tý gọi là địa Kỷ chuyên luận về lai long ở giữa chỗ long quá Giáp mà chiếu la bàn, nếu không có Giáp, thì lấy ở chỗ long nhập thủ Giáp xuống ở sai huyệt là chủ của huyệt tinh, tức là cho long nó khởi lên rồi, phục xuống thắt nhỏ lại như cuống họng, chữ gọi là “thúc nhân xứ”. Cứ chỗ long tích phân thủy mà định châm bàn, xem là long gì, để dùng nạp âm mà đón sinh khắc; như Tý long là thủy, trong khoảng chữ Tý lớn ấy có 5 chữ Tý nhỏ, hễ được chữ Bính Tý là thủy long, Canh Tý là thổ long, thì đều là vượng khí. Giáp Tý kim long là bại long khí, Mậu Tý hỏa long là tử khí, Nhâm Tý mộc long là sinh khí. Vì vậy phải coi mạch lại, xem long mạch lại ở phương nào, thuộc can gì. Vậy lấy 72 long có xấu, có tốt đã phân biệt do Tiên Hiền truyền thụ. Tóm lại là ở trong địa bàn mỗi chữ chi ở dưới có 5 Tý long, thành ra 60 Giáp Tý; là số của 12 địa chi của địa bàn có 60, cộng với tứ duy và bát can là 12 vị, mỗi chữ can và chữ duy ở dưới, đều có ghi thành 12 chữ đỏ, thấu thành 72 long xuyên sơn, khi dùng những long này cần phải tránh cô hư, không vong, sai thác, Quý Giáp, không lẫn nhau là tốt; lại cần phải đón cái sinh khí của vượng; tướng 1 đường mạch rót suốt đến chỗ kết huyệt thì tốt. 72 long đã phân rõ cô hư, diêu sát và vượng tướng, đều căn cứ vào 8 quẻ nạp Giáp, 9x6 xung hợp của can mà ra. Như gặp Giáp Nhâm là dương, mà cô ra ở nạp Giáp của quẻ Kiền, lấy 6 hào thuộc dương trừ đi 1 hào giữa, còn 2 hào trên dưới cô dương, là 2 nam vô nữ tướng phối cớ vậy. Nếu gặp ất, Quý là hư xuất ở nạp Giáp của quẻ Kiền, là lấy 6 hào thuân âm trung hư, không có dương câu là 2 nữ, không có nam phối nạp cớ vậy. Nếu gặp Bính, Canh là dương, mà vượng ra ở nạp Giáp của quẻ Cấn, Chấn, 6 hào ở trong 2 quẻ, trừ hào giữa còn trên dưới 2 hào, có 1 dương phối với 1 âm, là âm dương xung hào mà vượng vậy. Nếu gặp Đinh, Tân là âm mà cùng ra ở Tốn, đoài nạp Giáp, 6 hào trong 2 quẻ này, trừ hào giữa, còn trên dưới là 1 hào âm, 1 hào dương, là âm dương xung hợp mà là tướng. Nếu gặp Mậu Kỷ là Quý Giáp, không vong thì kiên nganh mà khí bất nhập vậy. Xuất ở nạp Giáp của Khảm Ly, trừ hào giữa là thể hiện của quẻ, còn trên dưới đều tuyệt nhất, bất giao, nên là Quý Giáp không vong. Dụng đó thì rất nên tránh Giáp ất là cô hư. Như 1 tuần Giáp Tý đến ất Hợi. Đó là 12 long khí mạch trung chính, lấy Bính, Đinh là vượng. Lấy Bính Tý 1 tuần, đến Đinh Hợi, đó là khí mạch trung chính của 12 long, tránh Mậu Tý là sát diệu. Lấy Mậu Tý 1 tuần đến Kỷ hợp, đó là khí mạch ở trong 12 long. Canh, Tân là tướng, lấy Canh Tý 1 tuần đến Tân Hợi, đó là khí mạch ở trong 12 long. Nhâm Quý là hư, lấy Nhâm 1 tuần đến Quý Hợi, đó là khí mạch thoái ở 12 long. Cái vượng tướng ấy là 4 quẻ được tiên thiên: Cấn, Chấn, Tốn, Đoài ở 4 phương góc là nơi dưỡng sinh mà thành quẻ, thì 4 quẻ, 6 hào đều là âm dương xung hợp. Nhiều phối với Bính, Đinh, Canh, Tân là vượng tướng cớ vậy. Nếu gặp 4 quẻ tiên thiên: Kiền, Khôn, Khảm, Ly ở nơi tứ chính là khoảng hư, nguy thì 4 quẻ, 6 hào đều là thuần nhất bất giao lại phối với Giáp, Ất, Nhâm, Quý, Mậu, Kỷ là quý Giáp, sát diệu. Như vậy bảo là 9 và 6 không xung hợp tất là nhân, tài hao tán mà bại tuyệt, nên khi sử dụng phải suy xét cẩn thận. Còn như Bính long lai mạch thì phải tựa vào chân khí của Bính long xuyên tới; đằng trước đối Nhâm; Ngọ, gác giây trên thẳng xuống chỗ kết huyệt mới là chuẩn đích, đúng long xuyên sơn. Dần long lai mạch là địa chi, thì tựa vào Bính Tý một vòng đến chữ Dần gặp Mậu Dần khí xuyên sơn là khí vượng. Nếu Nhâm Dần long lai mạch nhập thủ, thì từ Canh Tý 1 tuần, đến số Dần là khí mạch tướng. Tôi được thầy truyền riêng rằng: lên núi xét long hành phải nhận rõ chỗ khí vào huyệt, đều căn cứ lấy 72 long làm chủ. Muốn xét nghiệm những cái họa phúc về dĩ vãng và cái lành, dữ về tương lai của người ta thì phải ở nơi chu tinh đó làm căn cứ không được sai lầm 1 hào Ly. Người sau muốn kinh nghiệm điều đó, thì cần phải biết cái long khí của 1 vòng Giáp Tý và khí cộ, hạ huyệt vào đó thì bị bại tuyệt. Cái long của 1 vòng Bính Tý là khí vượng, đặt huyệt vào thì phát phú quý. Đây chỉ nêu lên 2 vòng làm ví dụ, các vòng khác cũng vậy. 72 long hợp với 64 quẻ, đều bắt đầu từ hào biến trước hết của 8 quẻ. Hỗn thiên hạp Giáp, quyết định năm phát phúc và tuổi mệnh, thì bắt đầu từ hạ hào (nét dưới) mà biến lên, từ nét biến đầu tiên đến nét 2, 3, 4, 5 còn nét thứ 6 không biến mà trở xuống biến nét thứ 4 gọi là quẻ du hồn. Sau khi trở xuống đem cả 3 hào trong quẻ biến hết thảy, để trở về bản quái (quẻ gốc) nên gọi là quẻ quy hồn. Nhà địa lý lấy 1 đoạn long nhập thử làm bản quái (quẻ gốc) để xét xem những sơn sa ở đằng trước, đằng sau, bên tả, bên hữu mà định đoán phát phúc về niên mệnh đã kể trên
XUYÊN SƠN THẤT THẬP NHỊ LONG THỨC
Như: Mệnh là quẻ Khảm lần thứ nhất biến hào đầu thành ra quẻ Đoài; gặp Đinh Can; biến lần hai thành quẻ Chấn gặp Canh can, thì đều phát phúc; biến lần ba thành quẻ Ly gặp Kỷ Nhâm can; so sánh thì Canh Đinh mạnh hơn; so với Mậu Quý quẻ gốc thì bằng nhau; biến lần thứ 4 thì thành ra quẻ du hồn, là ất can thì sức nhẹ hơn. Giáp, Tân, Bính 3 quẻ này thì 3 năm Nhâm không phát phúc vì quẻ Khảm không có 3 quẻ Kiền, Tốn, Cấn nên bảo rằng: “Xuất quái vô quan chức”, muốn biết rõ nghĩa cần phải đọc cuốn Duyên đàn tử có chép đủ cả 64 quẻ.
TẦNG THỨ 11: XUYÊN SƠN BẢN QUÁI, HỢP CHU DỊCH VI THIÊN THÔNG
Hoặc có người hỏi về nguyên tắc và quái lệ của 3 bàn: bản quái, nội quái, ngoại quái; đó cũng chỉ là một mối của lý khí mà ra; lấy 60 Giáp Tý của thấu địa phối hợp với Khảm làm thủy quái (quẻ thủy) 120 phân kim, Giáp Tý phối với sơn thành lối di quái. Lấy xuyên sơn 72 long Giáp Tý, phối hợp với thủy thành địa Tý quái; quẻ phối hợp thì lấy thấu địa làm nội quái, xuyên sơn làm bản quái, phân kim làm ngoại quái; 3 quẻ này: 1- Gọi là quẻ Liên Sơn. Vì nhà Hạ theo nhân thông, trên Kinh dịch lấy Cấn làm đầu; Cấn là núi liền liền vô tận. 2- Gọi là quẻ Quy tàng. Vì nhà Ân theo địa thông nên Kinh dịch lấy Khôn làm đầu; Khôn là đất, nói: vận vật đều quy tàng ở trong đất. 3- Gọi là quẻ Chu dịch. Vì nhà Chu theo thiên thông nên Kinh dịch lấy Kiền làm đầu là ý nói: đạo trời vận chuyển, lưu hành vô cùng biến hóa không ngừng vậy. Ba quẻ này rất tinh vi, nếu không phải là những thầy thông minh thì không thể nghiên cứu được những bí ẩn. Tôi được thầy dạy tâm truyền riêng cho nên biết được chút ít mà viết ra đây, muốn mọi người cùng biết. Ba quẻ dịch trên là sự phân phối của 60 long, nên lấy dùng được, rất là hay. Chủ yếu vào khí vận của thiên địa; gọi là địa mạch: là khí đi dưới đất, hình chiếu lên trời, vì vậy sinh khí của trời đều ứng vào các quẻ; tức là thông cả luật là thiên địa khí cảm mà ứng. Đây chuyên bàn về tuyển trạch (lựa chọn cái tốt) lấy các hào của quẻ hỗn thiên để bổ trợ cho lai long và tọa huyệt, thì được vạn toàn, đến căn cứ vào thiên tinh, địa diệu làm chủ chốt. Học về địa lý có người chuyên dụng về loan đầu; có người chuyên dụng về thiên tinh; chia ra phe phái phân biệt, mỗi môn làm 1 cách. Nhưng vì họ không biết rằng: loan đầu là thể, thiên tinh là dụng; thể và dụng đều liên quan với nhau làm cái trong cái ngoài vậy. Tinh tú trên trời chia ra khắp núi sông, khí lưu hành dưới đất, phản ứng lên Trời, nói rằng: “Địa thừa thiên khí” mà lưu hành. Ông Lý Thuần Phong nói: từ đông nam tới tây bắc của thiên thể có đường kính là 357.000 dặm. Mỗi phương là: 89.250 dặm. Từ đất lên trời là 84.000 dặm. Vì vậy người ta nói: lập phương hướng mà sai 1 Ly là sai đi ngàn dặm. Kinh sách nói: Đất có 4 thế, khí theo 8 phương, 4 thế là Dần, Thân, Tị, Hợi, là chỗ ngũ hành mới sinh, vậy nên Dần là đầu của phương đông, Tị là đầu của phương nam, Thân là đầu của phương Tây, Hợi là đầu của phương Bắc. Khí của 4 phương sinh đó, đi ở trong đất mà vận lên trời. Ở trên trời thì bàn về thời tiết, ở dưới đất thì bàn về hình thể. Lấy thời tiết để xem hình thể. Lấy hình thể để nghiệm về khí tiết. Vì vậy nên khí thịnh khí suy, có khi đầy khi rỗng (hư). Sơn của 4 thể sinh ra long ở 8 phương, 4 thể làm đầu mối cho ngũ hành hóa sinh. 8 phương làm tông tích chỗ ngũ khí tới lui. Bởi vậy nên lý khí của xuyên sơn, tức là phải được có loan đầu, thừa cái sinh khí đó dẫn vào huyệt, thì tự khắc có phúc đưa tới.
HỢP XUYÊN SƠN QUÁI, CHU DỊCH THIÊN THỐNG THỨC
Trên đây là 60 quẻ hợp với 72 long, tham hợp với 72 thời hậu trong mỗi năm. Mỗi quẻ khoảng 6 ngày.
TẦNG THỨ 12: TRUNG CHÂM NHÂN BÀN
24 sơn của tầng Trung châm là nhân bàn, so sánh với địa bàn có khác chút ít. Đó là do nguyên lý: Thiên đạo thì mạnh mẽ, địa đạo thì thuận an, nhân đạo thì hòa bình. Có trời đất trước rồi mới có người, nên nhân bàn ở khoảng giữa của thiên bàn và địa bàn. Lấy 1 vị Tý Ngọ làm ví dụ: Tý Ngọ ở thiên bàn thì 2 bên rìa là Bính Tý, Nhâm Tý khởi lại Giáp liền nên gọi là Phùng châm, ở đó biến thì Tý Ngọ ở ngay giữa, nên gọi là Chính châm. Ở nhân bàn thì Tý Ngọ ở giữa khoảng Tý, Quý, Ngọ, Đinh nên gọi là Trung châm. Người xưa dựng ra tam tài để sử dụng rất rộng rãi. Phương pháp lấy nhân bàn ở giữa, trên liên quan với thiên tinh tú độn, khí vận tiến, thoái; dưới thì liên quan với núi sông phân giới hạn địa mạch thịnh, suy, bĩ, thái, cho nên lấy nhân bàn làm chủ tể tác dụng cả thiên, địa 2 bàn, tức là người linh thiên hơn, mà đứng đầu muôn vật, cùng với Trời Đất thành ra tam tài. Vậy có chữ: “Nhân lực thắng thiên” nên mới dùng nhân bàn mà hợp với địa bàn để tham dụng thì công quả mới vẹn toàn. Xưa Thái Tổ tiên sư xét long, lấy đó dùng để tiêu sa, Dương Công thì dùng để nạp thủy, đứng hợp với thủy pháp của ông Tư Mã Dầu Đà là: “phóng khứ hoàng tuyền, vị chi xuất sát”: xẻ lạch cho nước hoàng tuyền chảy đi, gọi là xuất cát. Gọi là: Quý nhân, lộc mã, thượng ngự giai, nên có bài ca: 1- Quý nhân tam hợp liên châu thủy, cách nhập tương sinh lộn liễu tiên, kỳ Quý tham lang tinh lộc, mã, tam hợp liên châu Quý vô giá. 2- Tân nhập Kiền cung, bách vạn trang, Quý quy Cấn vị, phát văn chương, ất hướng Tốn lưu, thanh phú quý, Đinh tòng Khôn khứ, vạn tư sương. Giải nghĩa: 1- Ở phương Quý nhân được 3 cái nước hợp với nhau gọi là liên châu thủy, cách xa không hợp nhau liền, mà chảy vào được là tương sinh với long cũng giàu to, tiền để nát, phát quý là do cái nước tham lang và lộc mã cùng hợp. Nếu cả Quý nhân lộc, mã là tam hợp liên châu thì Quý lắm không thể đánh giá nổi. 2- Ất, Tân, Đinh, Quý là 4 âm can, ở 4 vị trí mộ khố của 4 cục; kim, mộc, thủy, hỏa; Kiền, Khôn, Cấn, Tốn là 4 vị trí tuyệt của 4 cục. Nếu thủy tiêu đi, được hợp cách như 4 câu thi ca, đón phát phú quý đó. Là hợp thủy pháp, lấy 1 câu thứ nhất làm ví dụ như: Tân là phương mộ của hỏa cục, Kiền là vị tuyệt được thấy nước ở minh đường trước huyệt chảy đi qua phương Tân Tuất ra phương Kiền là thủy khẩu phóng đi, đó là Tân nhập Kiền cung, bách vạn trang, là giàu có trăm vạn trang điền viên thổ. 3 cục kia cũng như vậy. Sẽ suy ra, có cách gì thì ứng nghiệm cách ấy. Chính là hợp với nhân bàn này. Ông Lại Thái tổ dùng bàn này để tiêu sa, lấy làm yếu quyết, sa tuy tại địa, nhưng thực ra quan hệ tại thiên, tại sao mà biết vậy ? Xưa Thánh Nhân nói rằng: làm việc chính thì phải lấy người có đức lớn, ví như: Ngôi bắc Thân ở chỗ nào, thì mọi vì sao khác phải triều cung vào đó; tức là sao bắc đẩu; chòm sao bắc đẩu có 9 ngôi, gọi là cửu tinh. Sao bắc thần ở giữa làm tiêu chuẩn chủ chốt Kiền cục, để vận động 4 phương 28 sao khác rải bày ở vòng ngoài, khắp cả ngang, dọc, trong bầu trời. Theo phép của nhà địa lý Kham Dư, thì ngôi bắc thần là huyệt trường, các long là cửu tinh, sa, thủy, là nhị thập bát tú. Dương Quân Tùng thì dùng cửu tinh để xem long. Lại Thái Tổ thì dùng nhị thập bát tú để xem sa, thủy; cái lý bảo tại thiên ấy chính là tại cái này vậy. Đời xưa Liêu Công và Dương Công, Lại Công; 2 vị này, về phép bát sa cùng là một. Nhưng về sau bí ẩn không truyền lại trong kinh sách, mà chỉ truyền khẩu cho nhau thuộc lòng thôi, nói rằng: Nếu truyền lại thì sợ tiết lộ, bị tội với thiên địa quỷ thần trách phạt. Nên đến đời nay vẫn có nhiều người không dám tiết lộ. Nhưng Thánh Hiền nói: Đạo lý không thể bị mai một; nếu bí ẩn thì hậu thế lấy đâu mà biết. Thánh nhân còn lo là thất truyền thì tôi đâu dám giữ bí ẩn trái lại. Vậy tôi cam tâm xin chịu tội mà đem phép bát sa của 2 ông Dương Công, Lại Công ra mà chú thích rõ ràng để hậu thế mọi người học lấy, để làm việc phúc đức giúp cho nhân loại. Bài ca về sa pháp nói rằng: Kiền, Khôn, Cấn, Tốn thị mộc hướng (là thuộc mộc) đây là một câu thuộc về 28 sao, thuộc về thất chính, ngũ hành (4) sao này thuộc mộc; Kiền thuộc vị trí sao khuê. Tên gọi là mộc lang; Khôn thuộc sao tỉnh tên gọi là mộc ngan; Tốn thì thuộc sao giác tên là mộc giao; Cấn thuộc sao đẩu tên là mộc giải. Tiêu sa thì phải lấy mộc mà luận; mà Dần, Thân, Tị, Hợi thì thuộc thủy; Dần thì sao cơ tên là thủy báo; Thân thì sao sâm tên là thủy viên; Tị thì thuộc sao Chẩn tên là thủy dẫn; Hợi thuộc sao bích tên là thủy du; tiêu sa thì phải lấy thủy mà luận. Giáp Canh Bính, Nhâm thì thuộc hỏa; Giáp thì thuộc sao Vỹ tên là hỏa hổ; Canh thì sao Chủy tên là hỏa hầu; Bính thì sao Dực tên là hỏa xà; Nhâm thuộc sao thất tên là hỏa chư; 4 sao này thuộc hỏa phải nhớ mà tiêu sa. Tý, Ngọ, Mão, Dậu, 4 sao này thuộc hỏa, nên theo như sao hỏa mà dùng để tiêu sa. Tý thuộc sao hư tên là nhật thử và sao nguy tên là nhật yên; Ngọ thuộc sao tinh tên là nhật mã và sao trương tên là nguyệt lộc; Mão thuộc sao phòng tên là nhật thổ và sao tâm tên là nguyệt hồ; Dậu thuộc sao mão tên là nhật kê và sao bất tên là nguyệt ô. Tại sao nhật nguyệt lại bảo là hỏa ? Vì nhật là quân hỏa, nguyệt là tướng hỏa. Tý, Ngọ, Mão, Dậu ở 4 vị chính, vì vậy lấy nhật, nguyệt cùng 1 cung sánh với đôi sao chỉ 4 ngôi chính là có 2 sao, còn ngoài ra đều có 1 sao phối thôi. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì thuộc kim cục, 4 sơn đều là kim; Thìn thuộc sao cang tên là kim long; Tuất thuộc sao lâu tên là kim cấu; Sửu thuộc sao ngưu tên là kim ngưu; Mùi thuộc sao quý tên là kim dương; 4 sao này là thuộc kim nên ghi nhớ mà dùng về tiêu sa. Ất, Thân, Đinh, Quý thổ tương thương, là bảo 4 sơn này thuộc về thổ, ất thuộc sao chi tên là thổ lạc; tân thuộc sao vỹ tên là thổ trĩ; Đinh thuộc sao liễu tên là thổ chướng; quý thuộc sao nữ tên là thổ bức, 4 sao này lấy là thổ để tiêu sa. Còn 5 loại khác đều là sinh, vượng, sát, tiết, nô. Có bài thơ ca: Sát tiết nô hê, sinh dữ vượng Sinh ngã thực Thân, cư lưỡng bảng Tị hòa nhân tài, phát khoa trường Ngã khắc thị tài, vi trừu nô Khắc ngã thất sát, tôi nan dương Tiết ngã văn chương cùng đáo để Nữ biên công danh, hảo hựu cường. (*) Thổ: Ất Æ Chi thổ lạc Tân Æ Vĩ thổ trĩ Đinh Æ Liễu thổ chướng Quí Æ Nữ thổ bức. Giải nghĩa: Sát là khắc sát, tiết là chảy, rút, mất đi – Nô là làm nô bộc – Sinh là sinh ra lợi ích – Vượng là thịnh vượng. Giải nghĩa theo nguyên văn bài thi ca như sau: - 5 loại sát, tiết, nô, sinh và vượng. - Sinh vào mình (ta) gọi là thực thần, tốt lắm. Thì phát phú quý. - Chiếm bằng đậu cao - Tí hào là cùng như nhau, phát người và của cải, học hay, đỗ đạt cao. - Mình khắc nó thì phát tài, gọi là nô. - Nó khắc mình là sát (giết mình) tức thất sát - Minh sinh nó là tiết, thì cũng có văn chương nhưng nghèo cùng đến đáy, về bên giới nữ tức con gái thì có công danh, giàu mạnh. Phép này lấy tọa sơn làm chủ như: tọa Kiền sơn thuộc mộc, lấy Tốn, Cấn, Khôn sa, tức là tỉ hào thì tốt. Thấy Sửu, Mùi, Thìn, Tuất cùng có sơn sa là khắc ngã tối nan đương, là sát ta. Nếu thấy Giáp, Canh, Nhâm, Bính, Tý, Ngọ, Mão, Dậu có sơn sa, tức là “Tiết ngã văn chương cùng đáo để”. Thấy Ất, Tân, Đinh, Quý sơn, tức là ngã khắc “tài thần vi thừa nô”. Thấy Dần, Thân, Tị, Hợi sa, tức là “sinh ngã vi thực thần”. Các sơn khác cũng vậy sẽ suy ra mà phải biết rõ. Khi đăng sơn tự thấy cái phép hay; theo phép xem các sơn sa đằng trước, phía sau, bên tả, bên hữu cần yếu là cái cung vị có sơn sa ứng đối diện tiền. Hễ sơn ứng gần thì phát vào người chủ mau chóng, còn ở xa thì ứng chậm trễ. Ông Trương Cửu Nghi nói: sa nhược Ly huyệt, tam lưỡng trượng, lưu niên tức đáo sản anh hào. Nghĩa là: sa cách huyệt độ 2, 3 trượng hạn lưu niên đến đó sẽ sinh ra người hào kiệt. Lại nói: Tốt nhất là biết cái sa ở ngay trước mặt huyệt. Quyết đoán họa phúc của người ta thì không sai. Phép này chẳng phải riêng tôi bàn đặt hay là một môn phái nào; mà đây là ở bộ sách Luyện đàn tử ra. Học giả nào mà hiểu tường tận 3 quyển này sẽ biết rõ trong đó có phân phòng, chân cung vị của sa cát, hung tự thấy công hiệu như thần. Nếu biết được 4 quyển thì xét long trở lên được 8,9 cung; quyết định được sự giàu nghèo, rất hiệu nghiệm. Nếu biết được quyển thứ 5 thì luận định được các ngôi đất cũ phát phúc; hiểu rõ thủy cung vị, trăm điều đúng cả trăm không sai. Nếu tường được 1, 2 quyển thì biết về thủy pháp, phá cục, hợp cục, Tị hoàng tuyền, sát diệu, trong đó xét tường tận tự nhiên trong tâm trí khác sáng suốt nhận Sa thiên: Hình mạo xấu hay đẹp cũng giống như núi sông xấu hay đẹp. Vì vậy núi Trung Nhạc linh ứng mà sinh ra Đức Khổng Tử. Ông Ngô Cảnh Loan nói: Đất trồng phúc hậu thì nhiều người sống lâu, đất tú lệ sinh ra nhiều người thanh nhã; đất thấp sình lầy sinh ra người u trọc; đất cao khô khan sinh ra người nóng nảy; đất tán loạn sinh ra người du đãng; đất có nhiều núi nhọn sinh ra nhiều người bị sát thương và hung ác; đất ương ngạnh sinh ra người bướng bỉnh; đất bằng phẳng sinh ra người trung tín. Ông Dương Quân Tùng nói: núi mập mạp thì người no ấm, núi gầy gò thì người đói rách; núi xinh đẹp thì sinh người đẹp đẽ; núi thô trọc thì sinh người xấu xí; núi đầy đặn thì sinh người vui tươi; núi vỡ lỡ thì sinh người đau buồn; sơn quay về thì người đoàn tụ, sơn tẩu khứ thì người ly tán; sơn duỗi trải buông rộng thì người thọ khảo; sơn co rút hẹp lại thì người đê tiện; sơn quang minh thì sinh người thông minh; sơn u ám thì sinh ra người ngu dốt; sơn quay mặt vào thì người hòa thuận nhau; sơn quay lưng lại thì bị người phản bội, khí trá. Ông Tư Mã Đầu Đà nói: Lấy đoan chính vuông vắn thì biết là trung lương; thấy nghiêng ngả, lệch lạc thì biết là siềm nịnh, thấp kém thì sinh người hạ tiện; nhu loạn thì sinh dâm ô; thấy sơn sa đơn bạc thì nghèo hèn; tú mỹ thì biết là nhân từ; uy vũ thì đấu tranh quả quyết. Nhận xét nguồn gốc của đại giang thì biết xuất thân xa hay gần; xem cả ngoại thành, nội cục, thì biết lực lượng rộng hay hẹp. Mạnh xuất thì có chỗ thiên thẹo, có chỗ trung chính; phát triển thì có chỗ lớn chỗ nhỏ, người ta bảo: Sa quản về nhân Đinh; hễ sa chân chính thì nhân Đinh tương bình, vậy bảo nhân bàn thu sa đó. Lại nói: sa không ngẩng đầu lên được là sa yếu ớt bất lực. Thủy không quanh co, ôm vào là thủy vô tình làm ngơ, ngoảnh mặt đi. Sa ở bên ngoài không quý bằng sa ở bên trong; thủy ở ngoài không bằng thủy ở gần (nội cục)
LẠI CÔNG BÁT SA CA
(Theo nguyên văn định nghĩa) Tiêu sa xưa nay có 5 loại là: Nô, vượng, sát, tiết, sinh - Ngoài nó khắc vào ta là sát - Ta sinh ra nó là tiết (tiết khí đi) - Vượng thân tức là ta thấy ta (cùng loại) - Nó sinh lại ta là thực thần; thực thần thì phát khoa Giáp; sinh nhân Đinh - Vượng thì phát tài lộc, nhiều con cháu - Sinh không ở chính hướng, chỉ như vượng - Hai vượng thì hơn một sinh - Sát lại thì tai họa - Tiết đi thì dần dần hao mòn - Ta khắc vào nó, là nó thì phát tài bạch và làm quan được lộc, lại hòa bình. - Những kiểu cát lớn thường nhiều có sát, vì hai khoảng công vị đó không đều nhau - Nếu long khí thịnh vượng thì cát sẽ yếu đi - Thiểm mạch và thoát mạch thì sát rất linh, sợ lắm - Long yếu sa mạnh, tiết vượng tốt thì con gái lấy chồng nhà danh giá, hào hoa Vì là sinh, là vượng thì quý tại nội, vượng tốt, kiêm cả tiết tại ngoại môn. Đây là bí quyết chân truyền của Lại Thái Tổ; chỉ có phép ai tinh rất là linh nghiệm
PHÉP HUYỀN DIỆU VỀ TIÊU SA QUYẾT CA
Kiền, Khôn, Cấn, Tốn thị mộc hướng Dần, Thân, Tị, Hợi, thủy Thân đương Giáp, Canh, Nhâm, Bính chân thị hỏa Tý, Ngọ, Mão, Dậu hỏa y sương Thìn, Tuất, Sửu, Mùi kim vị cục Ất, Tân, Đinh, Quý thổ trương trường
BÁT TIẾT NÔ HỀ
Sinh ngã thực thần cư lưỡng bảng, Tỉ hòa Đinh tài, phát khoa trường Ngã khắc thị tài, vi trừu nô Khắc ngã thất sát, tối nan đương Tiết ngã văn chương cùng đáo để Nữ giới công danh, hỏa hựu cường. Cũng như bài ca trước đã giải nghĩa rồi. Nói về thiên, thể thì có thất chính để giữ nguyên hóa (đầu gốc tạo hóa, tức là mặt trời, mặt trăng và 5 vì sao; có tứ viên đế chân 4 phương là: Tử vi, Thiên thị, Thái vi, Thiếu vi; có 28 sao rải rác khắp vòng trời) Thanh long có 7 sao: Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tam, Vỹ, Cơ; Chu tước có 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn; Bạch hổ có 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm; Huyền vũ có 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. Tứ viên tức là tứ tượng; thất chính tức là 7 vị tinh tú, căn cứ vào ngũ hành âm dương để tiêu sa; then chốt ở ngôi bắc đẩu mà phân biệt ra 4 phương là 28 sao, vậy nên các sao: Phòng, Hư, Mão, Tinh thì ứng vào mặt trời; còn các sao: Tâm, Nguy, Tất, Trương thì ứng vào mặt trăng; các sao: Giốc, Đẩu, Khuê, Tỉnh thì ứng vào năm; các sao: Vỹ, Thất, Chủy, Dực thì ứng vào sao Huỳnh hoặc; các sao: Cơ, Bích, Sâm, Chẩn thì ứng vào giờ; các sao: Chi (Đê), Liễu, Nữ, Vị thì ứng vào trấn tinh. Hình tượng ở trên trời mà chiếu sáng xuống đất, bởi vậy mới bảo: “Sa tuy tại địa, quan thực ư thiên”, nghĩa là: sơn sa ở dưới đất nhưng thực quan hệ ở trên trời. Nếu không có kinh tuyến (dây ngang) thì không thể lập cực (đúng cao) không có vĩ tuyến (dây dọc) thì không lấy gì mà biến hóa; một đường ngang, một đường dọc đúng là âm và dương giao đạo đấy.
PHÂN PHÙNG CUNG VỊ
Có 1 người con trai thì nó quản lý tất cả trong vòng bàn của địa cục; có 2 người con trai thì bên tả thuộc về con trưởng (con lớn), bên hữu và tiền, hậu (trước, sau) đều thuộc về tiểu (con nhỏ), chỗ này khô khan, đã là không đều. Có 3 con thì phân cung vị; triều và tọa thì thuộc về phòng thứ 2; có 6 con thì bày lại, thì thứ 3 và thứ 6 thuộc về bên hữu, con thứ 4 ở đầu trước, lần lượt chia đều bằng nhau; phòng thứ 2 thì ở triều và án sơn; có 5 con thì chia bằng nhau. Đây là căn cứ vào số của các phòng để phân vị với các sơn sa. Nếu biến đổi khác như lẫn lộn sa và bùn lầy thì phải rõ mà luận định khác nhau. Ví dụ: cung vị của 6 con; về bên thanh long, từ đằng sau qua đi là sa thuộc về trưởng; từ án sơn trở đi là sa thuộc về con thứ 4; về bên bạch hổ từ đằng sau qua ra đằng trước là cái sa của con thứ 3; từ án sơn trở đi là sa của con thứ 6. Tóm lại, sa thế gần cung nào, thì ứng vào cung ấy. Như vậy là đến cung nào không có sơn sa thì phòng (con) ấy bị tuyệt tự Như: Tý sơn Ngọ hướng thì Cấn, Dần, Giáp là nội thanh long thì thuộc về phòng trường; Mão, ất, Thìn là ngoại thanh long thì thuộc về phòng thứ 4. Kiền, Tuất, Tân là nội bạch hổ thì thuộc phòng thứ 3. Dậu, Canh, Thân là ngoại bạch hổ thì thuộc phòng thứ 6 Bên tả không có sa thì con trưởng bại trước; bênh hữu không sa thì con thứ 3 bị lênh đênh. Hướng sơn và tọa sơn không có sa, khoảng khuyết thì con thứ 2 và 5 thất bại. Chỉ có 1 án, 1 huyệt sơn thì con trưởng và đứa thứ 3 sẽ lưu lạc. Bên thanh long bằng và thẳng được, mà triều sơn và án phương rất đẹp đẽ thì con trưởng dần dần tiêu ma; con cháu phòng thứ 4 ly tán đi xa. Nếu bên thanh long toàn mất, triều ghé vào bên hữu thì hợp vào trưởng phòng làm long tinh. Triều sơn không có, long ở xa đến làm án thì con thứ 2 cùng hợp cả phòng thứ 3 và thứ 2 như nhau. Cái cát, hung, phúc, họa cứ theo thứ tự đó mà làm. Đây là chân bí quyết của Lại Công. Thân như bố con cũng không chịu nói. Người đời sau mà biết được phép tiêu sa này thì làm ông Tiên ở lục địa trong thiên hạ.
TRUNG CHÂM NHÂN BÀN THỨC
Hợp nhật, nguyệt với ngũ hành lại gọi là thất chính, tức là 7 vị chính đứng đầu. - Tả sa thuộc về con thứ 1, 4, 7 - Tiêu sa thuộc về phòng thứ 2, 6, ,8 - Hữu sa thuộc về phòng thứ 2, 6, 9 - Có 1 con thì hết thảy đều thuộc về người đó 28 sao chuyển ngược từ bên hữu về bên tả, tức là hữu toàn; hợp Thiên Thông lịch.
TẦNG THỨ 13: 60 LONG THẤU ĐỊA
Chia đều 60 long thấu địa gọi là thiên Kỷ, bắt đầu từ Giáp Tý ở tầng chính châm. Hợi, Mùi thuộc Kiền cung; Kiền của hậu thiên thì liên hệ với Cấn ở tiên thiên; Cấn là sơn vì cớ đó gọi là xuyên sơn. Chia đều 60 long bắt đầu từ Giáp Tý ở chính châm. Nhâm đứng ở đầu thuộc Khảm; Khảm ở hậu thiên, liên hệ với Khôn ở tiên thiên; Khôn là đất nên gọi là thấu địa; không nói xuyên mà nói thấu; lấy thấu là thông thấu tất cả, như cái ống thổi tro, hơi ra ở cái lỗ đó là thoát thấu được hết. Không nói sơn mà nói địa, là vì địa phát sinh ra vạn vật và ngũ hành khí đều do ở trong định địa có cát khí, thổ tùy khí mà khởi, có thể thấy hình tượng nổi lên trên mặt đất, đều do khí của ngũ hành thấu qua địa trung, hễ khí mạnh thì đất tùy khí mà lên cao, hễ khí yếu thì đất cũng tùy khí mà bình phục; khí thanh thì đất được thanh tú đẹp đẽ, khí trọc thì đất cũng tùy khí mà hung ác. Như vậy, khả dĩ nói là đắc địa. không nói hổ mà nói long; là vì long có khí mà không hình, nó biến hóa không lường được, không ai là không phải luận long, thấu ở huyệt trung vì long đó là đầu mối biến hóa. Vậy cần phải biết cái hay của 60 long thấu địa nên gọi là thấu địa long. Vì lẽ đó, sự tác dụng này là “táng thừa sinh khí”. Tất nhiên là phải nhận định cái long lai nhập thủ trước hết; tức là chỗ xương sống đất phân thủy ở sau huyệt, phải nhận xét kim của la bàn và mạch vào huyệt cho thật đúng. Ví dụ: Nhập thủ long: như 60 long: Tân Hợi nạp âm thuộc kim, mạch long từ bên hữu lại thì lấy tay bên tả làm thừa khí, thì huyệt tinh phải tọa Kiền hướng Tốn mới thấu được Đinh Hợi khí là thuộc thổ; chính Kiền long tọa huyệt là thổ sinh Tân Hợi kim, là huyệt sinh lai long thì nhà ấm phát phúc. Nhược bằng thấu được ất Hợi thì 7 phân Hợi, 3 phân Kiền là hỏa âm (âm nạp âm) tọa huyệt thì khắc Tân Hợi là long lai khắc huyệt sơn, thì nhà áo ít có lộc, cũng thấu được Kỷ Hợi khí 5 phân Kiền, 5 phân Hợi là sát diệu gọi là hỏa khanh thì con phá phần nhiều mắc bệnh lao thổ huyết, tổn thê, khắc tử, bị nước, bùn, kiến, mối vào quan tài đục gặm hài cốt. Có bài thi ca của Tiên Thánh rằng: Nhị thập tứ sơn, điên điên, đảo đảo Nhị thập tứ sơn, hữu châu bảo Nhị thập tứ sơn, thuận nghịch hành, Nhị thập tứ sơn, hữu hỏa khanh. Lại nói: “Đáo đầu sai nhất chỉ, như cách vạn trùng sơn”. Xem đó được thấy xuyên sơn, thấu địa đều là tự dụng 72 long chỉ luận về lai mạch, để định cương đầu (chỗ sống đất gồ lên) mà thấy phân thủy, ở sau huyệt, cứ trên long tích mà đặt bàn châm, độ khoảng 8 thước loan đầu ở phía sau huyệt, dùng bàn châm của 60 long thấu địa, xuyên sơn thì không cần dùng. Thẩm nhân, khí pháp huyệt của 60 long; mỗi một long có 5 khí, chữ là vượng khí; như long của 2 vòng Bính Tý và Canh Tý, thì có 24 vị châu bảo là cát. Lai cần phải tránh chỗ không, hư, sát, diệu, sai khác, không vong như: Giáp Tý, Nhâm Tý, Mậu Tý long ở trong 3 vòng này, có 36 huyệt là sai thác quan sát là toàn hung. Lại cần phải tránh cái hỗn thiên độ, không nên khắc phân kim; phân kim không nên khắc tọa huyệt; tọa huyệt không nên khắc thấu địa; thấu địa không nên khắc lai long. Khắc thì nên thuận khắc: lấy cái hạ khắc thượng thì sinh cát. Sinh thì nên nghịch sinh: là lấy dưới sinh trên thì làm xem đó thấy tác dụng của thấu địa, phải nên lưu tâm, cẩn thận chớ nên khinh thường. Trong La kinh bàn chép 24 vị có chính tự, hợp với 24 sơn chính khí mạch, nhập thủ là châu bảo. Chép có 12 ngũ tự là hỏa khanh. Trong 24 sơn thì có 37 long là sai thác, không vong. Người đời ai cũng biết là huyệt tại sơn, mà không biết các vị trí của huyệt chỉ độ 1 tấc vuông, là nhỏ bằng sợi dây tơ, đặt nằm trên la bàn.
NGHIỆM TÂN CỰU PHÂN ĐOÁN THI CA
Nhất cá sơn đầu, táng thập phân Nhất phân phú quý, cửu phân bần Đông sơn, đông hướng, đông triều thủy Cánh hữu đồng đôi, cộng tỉnh doanh Nhất biến quang hoa, sinh phú quý Nhất quan nên thủy, tuyệt nhân Đinh Huyệt tọa hỏa khanh, chiếu nê thủy Kim ngưu tọa huyệt, khởi tứ đằng Thời sư nhược năng tri thử lý Đả phá âm dương huyền diệu tinh Nghĩa là: Một khoảng sơn ở sau đầu, chôn 10 ngôi mộ Chỉ có 1 ngôi là phát phú quý, còn 9 ngôi bần Cùng 1 sơn, 1 hướng, 1 dãy thủy chầu Cũng có cùng đông mộ, ở cùng một lỗ huyệt Một bên khí nhuận tươi sáng thì sinh phú quý Một bên thấy bùn nước vào quan tài bị tuyệt tự Đó là huyệt tọa vào chỗ hỏa khanh, thì bùn nước vào Huyệt tọa vào chỗ kim ngưu thì có tơ tía quấn phủ Thầy địa nào biết lý khí này nghiệm như thế Là khám phá được mọi huyền diệu tinh vi của âm dương
TINH VI HUYỀN THƠ THI CA
Bát xích loan đầu yêu thức chân Trung gian tích thủy lưỡng biên phân Khán tha sinh ý quy hà xứ Thập tự đương trung chính lập thành Cánh khán lương biên vô cường nhược Định tâm phương khả hạ la châm Châu bảo hỏa khanh an bài định Phú quý bần tiện nghiệm như thần Nhị thập tứ sơn điên điên, đảo đảo Nhị thập tứ sơn hữu châu bảo Hữu nhập tọa liễu thử nhất huyệt Vinh hoa phú quý thử trung thảo ****** Nhị thập tứ sơn đảo đảo điên Nhị thập tứ sơn hữu hỏa khanh Hữu nhân tọa liễu thử nhất huyệt Gia nghiệp thoái bại, tuyệt nhân Đinh Chỉ nhân bất thức, loan đầu xử Hỏa khanh tương lai, tác châu bảo Hữu nhân tri đạo, kỳ trung diệu Năng cứu thế gian bần cùng nhân Lập lại loan đầu tâm chính khí Kim ngưu tọa huyệt khởi tử đằng Giải nghĩa theo nguyên văn: - Cần nhận rõ ở chỗ loan đầu khoảng 8 thước - Ở giữa khoảng sống đất cao rộng thủy phân hai bên - Xét cái ý nó chuyển về bên nào, đó là sinh khí - Mình đứng chính giữa chỗ chữ thập đỏ - Xét thấy 2 bên quân bình, không bên nào mạnh yếu - Quyết định có thể đặt la bàn đúng châm - Sự giàu sang nghèo hèn ứng nghiệm như thần - Trong 24 sơn đảo xuất, đảo ngược nhau đều là có châu bảo - Đều là có châu bảo ở trong 24 sơn đó - Ai đặt huyệt tọa đúng chỗ châu bảo là phú quý - Trong 24 sơn cũng đảo ngược đảo xuôi kia - Đều có vị trí của hỏa khanh đó ở trong đó - Nếu ai đặt táng tọa vào hỏa khanh thì tuyệt tự - Đó chỉ vì họ không biết rõ khí của loan đầu - Nên làm lẫn lộn vị trí của hỏa khanh đem làm châu bảo - Nếu ai biết được cái đạo lý kỳ diệu ở trong đó - Có thể cứu được những người cùng khổ ở trong đời - Là đứng tại giữa chỗ loan đầu mà tìm chính khí - Đặt huyệt đúng tọa vào kim ngưu thì tơ hồng tía quân phủ. DƯƠNG CÔNG NGŨ KHÍ LUẬN
Theo ông Dương Công luận xét thì: Từ Giáp Tý luân chuyển đi một vòng đến ất Hợi là mạch lãnh khí, là hư, từ Bính Tý đi một vòng đến Đinh Hợi là mạch chính khí là vượng; từ Mậu Tý một vòng đến Kỷ Hợi là mạch bại khí là sát; từ Canh Tý một vòng đến Tân Hợi là mạch khí vượng là tướng; từ Nhâm Tý một vòng đến Quý Hợi là mạch khí thoái là hư
LỤC THẬP LONG THẤU ĐỊA TỨC NGŨ TÝ KHÍ – CÁT HUNG BÍ QUYẾT
1-Khí Giáp Tý 7 phân Nhâm 3 phân Hợi là tiểu thác; là Giáp Tý xung quan mà sanh ra các bệnh: hoàng sũng, điên dại, phong, lao, tê liệt, cùi hủi, gái câm, trai ngọng v.v… Nếu thấy thủy ở phương Bính lại, thì trong quan tài có bùn nước đọng sinh ra thưa kiện v.v… sẽ ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu. 2-Khí Bính Tý ở chính Nhâm long thì rất tốt thêm người, gia của phú quý song toàn, mọi việc đều tốt. Nếu thấy thủy ở phương Mùi lại và phương Khôn thì chung quanh quan quách là cái lọ chứa nước, rất xấu, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn, Tị, Dậu, Sửu. 3-Khí Mậu Tý, 5 phân Tý, 5 phân Nhâm là hỏa khanh thì sinh ra người du đãng, bại nhân luân, không những quan tài bị rễ cây xuyên vào mà còn kiến, mối đục nữa. Nếu thấy thủy ở phương Tốn lại thì trong quan tài có 2,3 phần nước, bùn thì hỏng, sẽ ứng vào những năm: Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tý, Thìn. 4-Khi Canh Tý ở chính Tý long được phú quý song toàn, phúc lộc thịnh vượng lâu bền. Nếu thấy thủy ở Tốn lại là trong quan tài có bùn thì xấu hay dở sẽ ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn. 5-Khí Nhâm Tý, 7 phân Tý, 3 phân Quý là dương nhận, sinh ra người hay chết non và bị trộm cướp, tổn thê, hại tử, gặp nhiều tai nạn. Nếu thấy thủy ở Canh Tân lại thì trong quan tài có đầy bùn nước, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn. 6-Khi Ất Sửu 7 phân Quý, 3 phân Tý thì người của đều được thịnh vượng, sang giàu. Nếu thấy thủy ở phương Ngọ, Đinh thì quan tài có đầy bùn nước; tốt hay xấu đều ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu 7-Khí Đinh Sửu ở ngay Quý long, sinh ra người thông minh, lanh lợi, phú quý lâu bền; mọi sự vui vẻ. Nếu thấy thủy ở phương Mùi đến, thì trong quan tài có nước như ao thì hỏng; tốt hay xấu đều ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn 8-Khi Kỷ Sửu có 5 phân Sửu, 5 phân Quý là hắc phong, thì con gái bị chết non, con trai bệnh tật; mọi sự đều xấu, thường sinh ra bệnh điên khùng và thất bại đau đớn. Nếu thấy thủy ở phương Hợi lại thì trong huyệt có nước và sâu bọ, là vì thủy ở trong hỏa khanh sinh xuất, sẽ ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất 9-Khí Tân Sửu ở chính Sửu long, thì 30 năm sau mới giàu sang Đinh tài, đại vượng; mọi sự cát tường, sinh ra người nhân từ hiếu thảo, khác thường. Nếu thấy thủy ở phương Dần lại, trong quan tài có bùn nước là xấu. 10-Khí Quý Sửu, 7 phân Sửu, 3 phân Càn là phạm cô hư, sau khi tọa táng xong có nhiều tai họa xảy ra; mọi sự không vừa ý, cả gia đình đều lủng củng, khẩu thiệt sẽ ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy thủy ở phương Kiền thì có rễ cây xuyên vào quan tài 11-Khí Bính Dần, 7 phân Cấn, 3 phân Sửu thì huyệt bình thường, phát phúc, nhưng không bền sẽ ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất; mọi sự đều cát tường. Nếu thấy thủy ở phương Hợi lại thì quan tài bị bùn vào nát hư 12-Khí Mậu Dần chính Cấn long thì phú quý vinh hoa đời đời thịnh vượng, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn đậu đạt; chỉ sợ thủy ở phương Mão lại xung quan thì hung. 13-Khí Canh Dần, 5 phân Càn, 5 phân Cấn là cô hư, hỏa khanh, hắc phong, không vong. Sau khi táng 3, 6, 9 năm thấy sinh ra bệnh tật, gia tộc bại tuyệt, rất đau buồn. Lại thấy Thân thủy lại xung thì trong huyệt có bùn vào 14-Nhâm Dần khí ở chính long Dần, thì phú quý, phúc trạch dồi dào, lắm ruộng nhiều vườn, sẽ ứng vào các năm Tị, Dậu, Sửu. Nếu thấy thủy ở phương Ngọ xung thì quan tài có bùn là hỏng. 15-Giáp Dần khí có 7 phân Dần, 3 phân Giáp thì được bình an, một đời phát phúc, qua đời sau bị mắc bệnh đau mắt. Nếu thấy thủy ở Khôn xung vào thì quan tài bị mối, kiến đục thì xấu. 16-Đinh Mão khí có 7 phân Giáp, 3 phân Dần là bình thường, sinh ra người hay tửu sắc, phiêu lưu, lười biếng, ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất. Nếu thấy thủy ở Hợi xung vào thì huyệt có nhiều bùn nước là họa bại 17-Kỷ Mão khí ở chính Giáp long, Đinh tài đều phát đạt, ăn mặc phong lưu. Nếu thấy thủy ở Tốn xung vào thì có chuột bọ đục khoét hài cốt, con cháu đau buồn, không nghi hoặc gì nữa. 18-Tân Mão khí có 5 phân Tân, 5 phân Mão là hắc phong, hỏa khanh sanh ra trộm cướp, ngành thứ 3 bị bại tuyệt trước, rồi đến cả các ngành khác; sau bị thưa kiện, xảy ra nhiều sự hung dữ. Nếu thấy thủy ở Canh Thân lại thì quan tài có đầy bùn ngập. Mộ này chậm không chịu di cải thì bị bại tuyệt không tránh khỏi. 19-Quý Mão khí ở chính Mão long thì phú quý song toàn, sinh ra người thông minh, khỏe mạnh, mọi sự tăng tiến. Nếu thấy thủy ở Tị phương xung vào thì có rễ cây đâm vào quan tài, lành dữ đều ứng vào các năm Tị, Dậu, Sửu 20-Ất Mão khí, 3 phân ất, 7 phân Mão, hay sinh ra người cô quả, yểu tử, đời sau sinh ra người khòng lưng, khèo chân, tuy có người cũng khó giữ thân thế an toàn. Nếu thấy thủy ở phương Tuất xung vào thì trong huyệt có nhiều bùn nước nuôi cá tốt. 21-Mậu Thìn khí, 7 phân ất, 3 phân Mão, thì được người trường thọ, giàu sang, danh giá nêu cao. Nếu thấy thủy ở phương Thân, Dậu xung vào thì trong quan tài có kiến, bọ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu 22-Canh Thìn khí ở ngay ất long, thì an nhàn phát phúc vĩnh cửu vô cùng; 7 đời giàu sang, sanh ra người tuấn tú, anh hùng, siêu quần quán thế, ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi; chỉ sợ Đinh thủy xung vào thì sinh hỏa tai. 23-Nhâm Thìn khí, 5 phân Thìn, 5 phân ất là hắc phong, hỏa khanh, bại tuyệt, hay què chân, sinh khẩu thiệt, thưa kiện, ly hương, tu đạo, biệt tông. Nếu thấy thủy ở phương Tuất lại thì quan tài có bùn, bọ, kiến ở trong. 24-Giáp Thìn khí ở chính Thìn long thì 75 năm phát giàu sang thịnh vượng. Nếu thấy Tý, Quý thủy đến thì trong huyệt có bùn ngâm 25-Bính Thìn khí, 7 phân Thìn, 3 phân Tốn, thì người ngoài được phát phúc no ấm, yên ổn, rước con rể vào phòng (rước họa vào nhà) đời sau bại tuyệt vô tử, ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy Dần, Thân thủy xung vào, thì bị rễ cây đâm vào quan, vong nhân bất an. 26-Kỷ Tị khí, 7 phân Tốn, 3 phân Thìn thì phú quý ngang nhau, ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy phương Kiền thủy xung, thì thây cốt chôn bùn 27-Quý Tị khí, 5 phân Tị, 5 phân Tốn là hắc phong, hỏa khanh thì bại tuyệt, bách sự hung dữ, sau khi táng 5 hoặc 7 năm thì già trẻ, lục súc tan như gió bay. Nếu thấy thủy ở phương Sửu đến xung thì có chột làm tổ ở trong huyệt. 28-Ất Tị khí ở chính Tị long, được vinh hoa, phú quý, phúc lộc hưng long, ứng vào những năm Dần, Ngọ, Tuất có nghiệm. Nếu Quý thủy xung vào thì quan tài có bùn đầy. 29-Đinh Tị khí, 7 phân Tị, 3 phân Bính, thì sau 3 hoặc 7 năm thì khẩu thiệt đều. Nếu thấy Mão thủy đến thì trong quan tài có bùn và nước ở ngoài xâm nhập 30-Tân Tị khí ở chính Tốn long thì quá nguyệt là phát vinh hoa phú quý cho con cháu dòng họ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu; chỉ sợ là Ngọ Đinh thủy lại xung thôi 31-Canh Ngọ khí, 7 phân Bính, 3 phân Tị thì nhân hưng tài vượng sẽ hẹn được đời đời tăng tiến hạnh phúc, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất; chỉ kỵ thủy ở Giáp Dần lại thì tổn Đinh. 32-Nhâm Ngọ khí ở chính Bính long thì sinh xuất anh hung, phú quý song toàn, được 3 đời, sau cháu chắt vẫn còn thịnh vượng, ân hưởng bằng sắc huy chương. Kỵ thấy thủy ở phương Thân lại thì hỏng. 33-Giáp Ngọ khí, 5 phân Bính, 5 phân Ngọ là hỏa khanh, năm Tị, Dậu, Sửu gia trung bị bại khuynh. Lại thấy Đinh, Ngọ thủy lại thì đáy quan tài nát như bùn. 34-Bính Ngọ khí ở chính Ngọ long thì gia nghiệp bình bình, sinh ra người thông minh, mọi mưu sự đều thành tốt lành; gặp vào các năm Thân, Tý, Thìn, Tị, Dậu, Sửu. Nếu thấy Sửu, Cấn thủy lại xung thì trong quan tài bùn nước vào thì hỏng. 35-Khí Mậu Ngọ, 7 phân Ngọ, 3 phân Đinh thì quan tụng, khẩu thiệt rắc rối, người của bình thường, hằng năm hay sanh ra hoành sự bất ngờ. Nếu thấy thủy ở Quý, Tý xung thì ứng vào những năm Dần, Ngọ, Tuất không sai 36-Tân Mùi khí, 7 phân Đinh, 3 phân Ngọ thì sinh người tuấn kiệt, phát phúc mạnh như sấm động, tiền nát, thóc mục đầy kho. Nếu thấy Ngọ phương thủy xung, thì quan tài bị rễ cây xuyên vào thì rất xấu. 37-Quý Mùi khí ở chính Đinh long, thì sinh ra người phú quý, thọ khảo mộc đầu. Nếu thấy phương Canh thủy xung vào thì người chết về tai ách, ứng vào các năm Hợi, Mão, Mùi 38-Ất Mùi khí, 5 phân Đinh, 5 phân Mùi là phạm cô hư, hỏa khanh thì bại tuyệt rất đau đớn. Lại thấy Tị phương thủy xung, thì thây xương nát rã thành đất bùn, ứng vào các năm Tị, Dậu Sửu. 39-Đinh Mùi khí ở chính Mùi long thì gặp được phú quý song toàn, lâu dài, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn. Còn gặp hung sự vào những năm Dần, Ngọ, Tuất. Nếu thấy Sửu, Cấn phương thủy xung vào thì bùn nước đầy trong quan tài là hỏng. 40-Kỷ Mùi khí, 7 phân Mùi, 3 phân Khôn là phạm cô hư thì bị tai họa phá bại không sai. Đến hạn những năm Dần, Ngọ, Tuất thì sinh ra bệnh phong mê cuồng độc. Nếu thấy thủy ở phương Hợi, Nhâm xung vào thì nhi tôn có sự tai họa bất ngờ. 41-Nhâm Thân khí, 7 phân Khôn, 3 phân Mùi thì phá gia tài, bại sản, bệnh tật, đau đớn liên miên đáng buồn khổ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu, thuốc thang khó điều trị. Nếu gặp thủy ở phương Ngọ xung thì quan tài có đầy nước. 42-Giáp Thân khí ở chính Khôn long, được sinh ra người thông minh, tuấn tú, phú quý thanh nhàn, điềm ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn; đời đời vui vẻ vô cùng. Nếu thấy thủy phương Càn lưu xung thì quan tài bể nát làm hư thì hỏng bại 43-Bính Thân khí, 5 phân Thân, 5 phân Khôn là hắc phong, hỏa khanh bị bại tuyệt bần cùng. Nếu thấy Tý, Quý thủy xung thì huyệt có bùn nước, thực không sai. 44-Mậu Thân khí ở chính Thân long thì sinh ra người thông minh trường thọ, phú quý song toàn. Nếu thấy Giáp thủy xông vào thì quan tài đầy bùn nước, là tối hung. 45-Canh Thân khí, 7 phân Thân, 3 phân Canh thì phạm cô hư, có nhiều tai nạn xảy ra. Lại thấy Kiền thủy lai xung, thì người bị về tai nạn áp bức chết. 46-Quý Dậu khí, 7 phân Canh, 3 phân Thân được phát phú quý, người của vẹn toàn cả hai và sống lâu. Nếu thấy thủy phương Đinh xung vào thì huyệt trở thành ao ngâm nước quan tài, hài cốt hư nát. 47-Đinh Dậu khí, 5 phân Canh, 5 phân Dậu là phạm hỏa khanh, thì bách sự bất như ý, bị tuyệt tự nhân Đinh. Nếu thấy Quý thủy xung vào thì quan tài đầy bùn nước mãi. 48-Ất Dậu khí ở chính Khôn long sinh ra người rất thông minh và giàu sang. Nếu thấy thủy Thìn phương xung vào thì quan tài chôn chỗ nước bùn. 49-Kỷ Dậu khí ở chính Dậu long, thì phát văn võ gần tới tước tam công (quan to) đời đời giàu sang, điềm ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy thủy phương Mão xung, thì áo quan cũng bị bùn vào, không kết phát đâu. 50-Tân Dậu khí, 7 phân Dậu, 3 phân Tân thì giàu sang bền mãi, người của hưng vượng, mọi sự đều tốt lành, sẽ ứng vào các năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy Kiền thủy phương xung vào quan tài thì lại ưu sầu. 51-Giáp Tuất khí, 7 phân Tân, 3 phân Dậu, được phát phú quý 1 đời không vẹn, qua đời sau sinh ra người đi làm tăng ni tu đạo; ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất, bị cô quả mà bại tuyệt, mọi sự buồn chán, lo âu. Nếu thấy thủy phương Nhâm xung vào thì sinh ra kỳ quái, ma quỷ trêu quậy. 52-Bính Tuất khí ở chính Tân long thì sinh ra nhân Đinh phát đạt vui vẻ, đăng khoa cập đệ sớm, vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy Giáp Mão thủy xung, có rễ cây đâm xuyên vào quan tài. 53-Mậu Tuất khí 5 phân Tuất, 5 phân Thân, phạm vào cô hư, hỏa khanh, bị bại tuyệt, người sinh nhiều bệnh tật, chết non, cô quả, vào chùa tu đạo, tổn vợ khắc con, quyết định không nghi hoặc, ứng vào các năm Ngọ, Mùi đã biết trước rồi, lại chịu nhiều tai họa kỳ dị. Nếu thấy thủy phương ở Thân xung thì quan tài hư nát không còn. 54-Canh Tuất khí ở chính Tuất long, thì được giàu sang, sung sướng,ăn mặc phong lưu, những năm Tị, Dậu, Sửu thấy tin vui mừng, 36 năm sẽ sanh ra người thông minh xuất chúng. Nếu thấy Ngọ, Đinh thủy xung vào thì hung bại. 55-Nhâm Tuất khí, 7 phân Tuất, 3 phân Kiền, sinh ra người chết non, không có của cải, Ly hương vào chùa tu đạo, tổn khê, khắc tử, bại phòng 2 (con thứ 2 bại), thoái bại không thể lo tính thoát khỏi. Điềm ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy thủy Thìn, Tuất phương xung thì trong quan tài có đầy bùn nước ngập. 56- Ất Hợi khí, 7 phân Kiền, 3 phân Tuất sinh ra con dâu quả phụ, chết non, bệnh tật phong tàn đủ cảnh thảm thương, con mồ côi. Năm Dần, Ngọ, Tuất thì phát khốc đau buồn. Nếu thấy thủy ở cung Khôn xung thì trong quan tài đầy mối kiến đục gặm. 57-Đinh Hợi khí ở chính Kiền long thì đại phát phú quý, được nhiều sự cát khánh, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn; chỉ sợ Tốn thủy phương xung thì quan tài đầy bùn nước mục nát, tối hung. 58-Tân Hợi khí ở chính Hợi long, thì Đinh tài đều phát, lâu bền thịnh vượng. Nếu thấy Ngọ, Đinh thủy xung thì bùn vào quan tài mục nát, đại hung, tối kỵ. 59-Kỷ Hợi khí, 5 phân Kiền, 5 phân Hợi là phạm hắc long hỏa khanh, sinh ra hung bại, đến những năm Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất người ly tán tha phương, đa sinh kỳ quái. Nếu thấy Canh, Dậu thủy xung, thì rễ cây xuyên đâm vào quan tài thì hung bại. 60-Quý Hợi khí, 7 phân Hợi, 3 phân Nhâm, được làm quan, phát mọi sự, phong hanh, người của được thịnh vượng, sẽ ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn có nhiều cảnh vui đẹp. Nếu thấy Thìn thủy xung thì trong quan tài không sạch sẽ.
NHỊ THẬP TỨ SƠN HỎA KHANH THÂN ĐOÁN
Mậu Tý, Giáp Ngọ khí nan đương (khí ác khó chịu) Âm dương sai thác, thị (là) không vong Hốt thính sư nhân chân khẩu quyết (tức là phép truyền khẩu) Lập trạch (nhà) an phận (mả) kiên Tốn thương Thân, Tý, Thìn niên, Dần, Ngọ, Tuất (ứng vào 6 năm này) Tật bịnh quang tai (thưa kiện) tổn nhị phòng (con thứ 2) Quan tặc khiên liên (kéo dài) phòng phòng chiêm (cả các con) Nê thủy nhập mộ (mộ) bất phi thường (độc lắm). Kỷ Sửu, Ất Mùi, khí hung bạo (dữ tợn) Kỳ trung hỏa khanh, tối bất lương Tị, Dậu, Sửu niên, Hợi, Mão, Mùi (ứng vào 6 năm) Tật bịnh quang tai, thoái điền trang Bạch nghĩ (môi trắng) biện tòng đế hạ (dưới đáy) nhập Tổn thê, khắc tử, tại tam phòng (con thứ 3) Thử phân (mộ này) nhược hoàn (nên còn) bất cải dĩ Tử tôn tháp tự (giống như) ngõa thượng sương (tuyết) Canh Dần, Bính Thân, khí bất lương Lập trạch, an phân, tổn trưởng phòng Thân, Tý, Thìn niên, Dần, Ngọ, Tuất Tổn thê, khắc tử tối nan đường Tật bịnh quang tai, phòng phòng chiếm (lẫn cả cho con) Thủy, hỏa, khiên liên tổn ấu phòng (con trẻ nhỏ) Bạch nghĩ tiên tòng, để hạ nhập Điền trang thoái bại, thủ không phòng (nghĩa là kiến, mối,… dưới đáy quan mà vào khoét, thì ruộng nương tan hết, giữa buồng rỗng tuếch) Tân Mão, Đinh Dậu bãi vi cường (chẳng phải mạnh) Lập trạch, an phân, tổn nhị phòng Hợi, Mão, Mùi niên, Tị, Dậu, Sửu Tật bịnh, quang tai, tổn tam phòng Thủy, hỏa Khôn liên, đa hoành sự Nhân Thân liên lụy, phòng phòng đương (cả các con) Nhâm Thìn, Quý Tị khí như thương (mũi nhọn) Lập trạch, an phân tổn tam phòng Thân. Tý, Thìn niên, Dần, Ngọ, Tuất Tật bịnh, quang tai, tổn tiểu phòng (con út) Hậu đại nhi tôn, đa tăng đạo Tổn thê, khắc tử, bất an khang. Mậu Tuất, Kỷ Hợi thị không vong Lập trạch, an phân tổn trưởng phòng Tị, Dậu, Sửu niên, Hợi, Mão, Mùi Tật bịnh, quan tai, tổn tiểu phòng Thủy, hỏa khiên liên, xuất ngoại tử (chết) Điên địa, nhân tài, như tuyết sương Bạch nghĩ tiên tòng, để hạ nhập Nhi tôn ngỗ nghịch, tẩu tha hương. Tiên Thánh nói: ở dưới chỗ huyệt ngồi mà không được là chân khí mạch, thì dầu có muôn tầng núi trùng trùng, điệp điệp ở trước mặt cũng coi như là không có gì cả. Chỗ đặt mộ mà được long mạch tốt đẹp hoàn toàn, thì dù có ít sơn sa, cũng có thể phát phú quý được, chính là bảo vệ lý khí ở bài trên đây. Bính Tý, Canh Tý 2 vòng này là châu bảo, đó là “Tầng thừa sinh khí” là được cái linh khí của núi sông. Vậy lấy là cái tốt hàng đầu của 36 vòng La kinh.
THẤU ĐỊA LỤC THẬP LONG THỨC
Bên dưới mỗi chữ về thấu địa có ghi rõ chữ số tam (3), thất (7), ngũ (5), và chữ chính, làm 1 vòng đến chữ thiên chính, đã bày ở tầng thứ 14. Đặt táng vào hỏa khanh, thì huyệt sẽ có mối, kiến, rễ cây và bùn nước chiếm ngâm nát hài cốt, đất trên mả khô khan, cây cỏ héo hon như phân trâu, bò, con cháu sinh dâm loạn, yểu vong, cô quả, sinh ra người ngỗ nghịch, điên cuồng, người hết, của hao, tai họa, kiện cáo liên miên v.v… Đặt táng vào huyệt châu bảo, mở xem hẳn là thấy có sinh khí ôn nhuận, đất có ngũ sắc vân như hồng hoàng, sáng sủa, lại có tơ hồng, dây tía phủ quấn quan tài, hài cốt. Đất trên mộ thì có khí mát, ẩm dịu, cây cỏ xanh tươi tốt. Vậy sinh ra phú quý không sai.
TẦNG THỨ 14: THẤU ĐỊA KỲ MÔN ? TỬ PHỤ, TÀI QUAN, LỘC MÃ QUÝ NHÂN BÀI CA NGŨ NGÔN: TIÊN NGÔN XUYÊN SƠN HỔ
Phương hành thấu địa long Hỗn thiên khai bảo chiếu Kim thủy nhật, nguyệt phùng Nghĩa là: Trước hết nói xuyên sơn hổ, rồi đi đến thấu địa long, tự nhiên trời mở sáng như bảo kính soi, thì kim, thủy, nhật, nguyệt gặp nhau. “Xuyên sơn hổ” là tiếp mạch của 72 long, “tiên thức” là xét cái lai mạch trước để biết nhập thủ là long gì ? Không nói là long mà nói là hổ, đó là ý nghĩa của phép dùng “ngũ hổ” làm nguyên độn để ứng khí hậu, “phương hành” là đã biết long nhập thủ rồi, thì sau mới có thể làm việc thừa khí, tọa huyệt được, “thấu địa” tức là 60 long của tọa huyệt, với 72 long là cái bên trong, cái ở ngoài, nên bảo là “tương biểu lý”, thâu: là như dùng cái ống thổi khói, để khí thông vào huyệt, “xuyên” là như dùng sợi chỉ để xỏ vào lỗ kim, để được suốt tới; “hỗn thiên” là cái hỗn thiên lục Giáp dùng làm độn khởi, để tìm cái sa thủy của tứ cát, tam kỳ, “bảo chiếu” là như cái gương sáng, soi vào vật đó, có thể thấy đủ cả tứ cát tinh của hỗn thiên di chuyển “kim, thủy; nhật, nguyệt” là 4 cấm tinh này hội hợp 1 chỗ, lấy đó làm tác dụng, để thu sa, thủy, lai long của bản ở tọa huyệt hợp với tầng thứ 5 của la bàn, cùng luật lệ; trước hết theo thời tiết của 6 Giáp, định ra 3 thời hậu: thượng, trung, hạ, sau khi đã chia ra 9 cung dùng để độn Giáp, xem khởi Giáp Tý ở cung nào, sau đó mới đặt ra quẻ độn, biết quẻ đầu ở đâu, bản long tới chỗ nào, tử, phụ, tài, quan nhân đó mà suy đoán. Nhật, nguyệt, kim, thủy theo đó mà hội. Tam kỳ bát môn theo đó mà suy ra, thì biết hết sự của tinh độ nội quái. DƯƠNG ĐỘN KHỞI TIẾT CA Đông chí, kinh chập, nhất thất tứ Tiểu hàn, nhị bát ngũ vi thứ Đại hàn, xuân phân, tam cửu lục Lập xuân, bát ngũ nhị tương trục Thanh minh lập hạ, tứ nhất thất Ngũ thủy, cửu lục tam vô thất Tiểu mãn, cốc vũ ngũ nhị bát Nang chủng, lục tam cửu số chi Nghĩa là: Thuộc về tiết đông chí và kinh chập thì khởi ở số 1, 7, 4. Tiết tiểu hàn thì khởi ở số 2, 8, 5. Tiết đại hàn và xuân phân thì khởi ở số 3, 9, 6. Tiết lập xuân thì khởi ở số 8, 5, 2. Tiết thanh minh và lập hạ thì khởi ở số 4, 1, 7. Tiết ngũ quỷ thì khởi số 9, 6, 3. Tiết tiểu mãn và cọc vũ thì khởi ở số 5, 2, 8. Tiết mang chủng thì khởi ở số 6, 3, 9.
ÂM ĐỘN KHỞI TIẾT CA
Hạ chí, bạch lộ, cửu tam lục Đại tuyệt, tứ thất, nhất cung trú Đại thử, thu phân, thất nhất thứ Tiểu thử bát nhị ngũ trung xuy Lập đông, hàn lộ, lục tam cửu Lập cung, nhị ngũ, bát cung tham Tiểu hàn sương giáng, ngũ bát nhị. Sứ thử nhất tứ thất nội hàm Nghĩa là: Tiết hạ chí, bạch lộ ở số 9, 6, 3. Tiết đại hàn ở số 7, 1, 4. Tiết đại tuyết bạch lộ ở số 4, 7, 1. Tiết tiểu thử ở số 8, 2, 5. Tiết lập đông hàn lộ ở số 6, 3, 9. Tiết lập thu ở số 2, 5, 8. Tiết tiểu hàn sương giáng ở số 5, 8, 2. Tiết sử thử ở số 1, 4, 7.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP THỨC
TẦNG THỨ 15: THIÊN ĐỊA QUÁI LỤC THẬP LONG
Theo phép lấy 24 hướng phân phối với 60 long, mỗi hướng giữ 2 long rưỡi, 24 sơn cộng với 60 long. Trừ 4 quẻ Chấn, Đoài, Ly, Khảm. Ly là tứ chính đều quản 8 long. Kiền, Khôn, Cấn, Tốn là tứ ngang, đều quản 7 long; 8 long từ Giáp Tý đến Bính Tý, Mậu Tý, Canh Tý, Nhâm Tý, Ất Sửu, Đinh Sửu và Kỷ Sửu đều thuộc Khảm. 7 long: Tân Sửu, Quý Sửu, Bính Dần, Mậu Dần, Canh Dần, Nhâm Dần, Giáp Dần. 8 long: Đinh Mão, Kỷ Mão, Quý Mão, Ất Mão, Tân Mão, Mậu Thìn, Canh Thìn, Nhâm Thìn đều thuộc Chấn. 7 long: Giáp Thìn, Bính Thìn, Kỷ Tị, Tân Tị, Quý Tị, Ất Tị và Đinh Tị đều thuộc Tốn. 8 long: Canh Ngọ, Nhâm Ngọ, Giáp Ngọ, Bính Ngọ, Mậu Ngọ, Tân Mùi, Quý Mùi, Ất Mùi đều thuộc Ly. 7 long: Đinh Mùi, Kỷ Mùi, Nhâm Thân, Giáp Thân, Bính Thân, Mậu Thân, Canh Thân đều thuộc Khôn. 8 long: Quý Dậu, Ất Dậu, Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Tân Dậu, Giáp Tuất, Bính Tuất, Mậu Tuất đều thuộc Đoài. 7 long: Canh Tuất, Nhâm Tuất, Ất Hợi, Đinh Hợi, Kỷ Hợi, Tân Hợi, Quý Hợi đều thuộc Kiền. Lấy 6 long phân phối với 24 khí, thì từ Giáp Tý, Mậu Tý, Bính Tý là đại tuyết. Canh Tý, Nhâm Tý là đông chí. Ất Sửu, Kỷ Sửu, Đinh Sửu là tiểu hàn mà Tân Sửu, Quý Sửu ở cung âm là đại hàn. Bính Dần, Mậu Dần 3 quẻ, trung tiết khí quản 2 quẻ, quẻ sau của 6 cung, đều lấy 60 long ở trên chia cho cung vị 8 quẻ, đó là quản định vị, như là ở quẻ quản là nội quái những quẻ độn tới, là ngoại quái, hợp thành 2 quẻ. Ví như: từ Giáp Tý đến Kỷ Sửu là 8 long thuộc Khảm, đó là 8 long nội, ngoại đều tọa định ở Khảm cung; những quẻ độn thêm tới là ngoại quái, cộng thành 1 quẻ. Trước hết bày 60 quẻ Giáp Tý, sau sẽ biết các quẻ: tử, phụ, tài, quan và hỗn thiên khởi lệ đỗ thức của 60 long phối hợp với các quẻ nêu ở sau: Khi lên núi xem đất, thì nhớ là 60 long thấu địa. Đây tôi chỉ chép có 24 vị huyệt châu bảo là vương hướng thôi, còn 36 long là cô hư, sát diệu bỏ trống không thì phải tránh. Học giả chiểu theo 24 vị châu bảo, tôi đã chỉ rõ cứ coi ở đồ thức sẽ biết mà làm, thì sa, thủy ở các phương: ngũ Thân, tứ cát của mộ địa đó mà đoán nghiệm về phát phúc, thì không có cái nào là sai. Muốn lấy 24 huyệt thấu địa châu bảo, thì đặt quẻ theo thể lệ ở giữa chỗ huyệt, lấy tam ky, bát môn, tử, phụ, tài, quan. Quý nhân, lộc mã, tứ cát, ngũ thân, mọi tinh phong tú mỹ cùng ứng ở xung quanh, thì phát phú quý mau chóng. Nên 6 hào các tinh phong có, nhưng không được hoàn toàn thì nên tạo cái tháp, cái lầu, cái đỉnh đài, hoặc đắp ống đất cao lên, hoặc trồng cây tre để bổ sung sẽ được cái cát mà phát phúc, phát quý lâu dài.
THẤU ĐỊA QUÁI THỨC
Địa bàn này hợp với quẻ thiên nguyên liên sơn mà làm nội quái cho quẻ thấu địa, gọi là quẻ liên sơn. Nhà Hạ theo nhân thông, nên kinh dịch lấy Cấn làm đầu, Cấn là núi liên chẳng chấm dứt.
TẦNG THỨ 16: 60 LONG PHỐI CÁC SAO ĐỂ ỨNG VỚI TỨ CÁT SA, THỦY
28 sao phân ra khắp tất cả trong 60 long, bắt đầu khởi từ Giáp Tý là Giốc mộc giảo, đi thuận đến Ất Sửu là cang kim long, đến Bính Dần là chi thổ lạc, hết 1 vòng lại trở ngược lại, bắt đầu khởi từ Giốc, luân chuyển ra 2 vòng, mỗi sao đều quản 2 long. Chỉ có 4 sao: Giốc, cang, chi (đê), phòng đều được quản 3 long, để cho đủ số 60 mà đủ tra sao khởi quái trì theo xét cách sử dụng của tứ cát, lại còn 1 phép nữa như là 60 long Giáp Tý nạp âm kim long, là Giáp mộc giao quản cục, tức mộc thụ kim long, đây là sao khắc, chịu chế ngự, vậy khi phân kim không nên dùng kim độ tọa huyệt, vì sao mộc chịu khắc quá nhiều thì không tốt, lại như: Bính Ngọ thủy long nguyên là khuê mộc lang quản cục, là cầm tinh được thủy long, sinh, thật là tốt thượng hạng. Vì vậy được phân kim tọa độ lưỡng nghi thì càng tốt, mọi cái khác cũng vậy sẽ suy ra.
NHỊ THẬP BÁT TÚ PHÂN PHỐI LỤC GIÁP
Có bài tiệp quyết phụ như sau: Giáp Tý giác hệ, ất Sửu cang Bính Dần, Đinh Mão, chi phòng dương Thứ tự bài lai, chí Giáp Tuất Hư tú quản cục, bất tu trang Sâm Quý Giáp Thân, chi quy nạp Giáp Thìn thất hỏa vi định củ Giải nghĩa: Bài thơ ca dễ nhớ về 28 sao phân phối với 6 Giáp, rất mau hiểu. Giáp Tý thuộc độ (vi) là sao Giốc; Ất Sửu là sao cang; Bính Dần là sao chi, Đinh Mão là sao phòng; Giáp Tuất là sao hư; sao sâm thuộc về Giáp Thân; sao chi thuộc về Giáp Ngọ; Giáp Thìn thuộc về sao thất, thuộc hỏa; Giáp Dần thì sao quý, quản cục; mỗi vòng có 10 sao luân chuyển đi đủ số độ. Xét thiên này là định luật lệ về cầm tinh cai quản vị trí ở trong la bàn, như: Giáp Tý long mà xuyên được vào sơn phận của sao giác – mộc giao cai quản, thì Giáp Tý là kim long; giác là mộc tú, là kim long khắc sao mộc, lại thêm cái hành long là kim độ của hỗn thiên nữa, đó là cầm tinh chịu khắc, thì dù là long, huyệt, sa, thủy được khẩn mật, tốt đẹp cũng chỉ phát tạm thời 1 ít thôi, rồi sau tất bị bại tuyệt, vì sinh ra nhiều tai họa; bệnh lao, giặc cướp bóc, chết đường xá v.v… Lại như Bính Tý là thủy long, xuyên được vào sơn phận của sao khuê mộc lang quản lý, là thủy sinh mộc, lại được long, huyệt, sa, thủy toàn mỹ, lập hướng hợp pháp thì phát phú quý vô cương. Cầm tinh nên chịu Thân hãm (chế ngự) cũng không tốt lành. Tức như đất mộ tổ nhà ông Giã Mộ Tướng, hư danh tự đạo, ở huyện Thiên thai bên Trung quốc làm Dậu sơn, Mão hướng là lữ đậu Lôi, quẻ quy muội, hào tam là Đinh Sửu sao bích trì thế, sao tốt quản cục, Kỷ Dậu lại thuộc Đinh Dậu, xuyên được sao Vỹ quản sơn, hay lấn át sao trì thế, hợp tính từ bản sơn luân chuyển những năm tiếp theo đi thuận đến Đinh Dậu 6 vòng là thấy tai họa ngay lập tức. Vậy sách có ghi mấy câu thi ca: “Kim tinh, Bích thủy, Du Tinh hiện Tối Kỷ kim ô, thăng bảo điện Chính diện chư hầu bán diện Quân Quý cậu sinh nhân, thụ âm quyền Lục thập niên hậu cáp nghi thiên Vỹ hỏa bỏ tinh quả xuất hiện Mã đầu hỏa điệm chủng thiên Hồng Phá liễu kim ô Thượng bảo Điện Địa hình, thiên tượng, sát khí đông đáo thử linh nhân vô nhãn kiến Thiên cơ bí mật bất dong thức địa ký lầu Vi Thiên cổ nghiệm” Giải nghĩa: Kim tinh và sao bích Thủy Du hiện, tất rừng là thấy vầng kim ô (mặt trời) lên bảo điện, tức là làm Thừa Tướng chính ở trước mặt là chư hầu Quốc, một nửa quyền hành là thay mặt vua. Quý hậu sinh ra người được ân hưởng phúc lớn. Nhưng sau 60 năm phải cấp tốc dời mộ đi chỗ khác, bởi sao Vỹ là hỏa hổ sẽ xuất hiện, tức là lửa ở đầu ngọn bốc cháy đỏ rực trời, phá tan vầng kim ô và tòa bảo điện. Sát khí ở địa hình cũng như sát khí ở thiên tượng. Đến lúc đó mới biết là mắt người thường không thể thấy được. Sự bí mật của Thiên cơ chẳng dễ mà biết trước. Nhà địa lý ghi để lại cho ngàn đời kinh nghiệm mà xem. Đó là nói: phương vị của loan đầu chịu khắc, mà sao trì thế lai chịu thôn hãm (lấn áp nuốt mất) Những cầm tinh ở trong mười hai chi phương điện, nhập viên, là sao Đại cát của huyệt, lai nên cùng với sao của phương thủy lai là tương sinh hay tỷ hòa thì mới tốt lành. Phương pháp, thì lấy 2 sao tàng ẩn ở dưới long thấu địa, dùng địa bàn tìm lấy 4 sao cát của Sa Thủy, cầm tinh trì thế, làm thấu địa long nạp âm, là trong ngoài cùng nhau, lại phải xét tới cái hỗn thiên độ tương khắc, là quan sát đó, nên cẩn thận xem kỹ lúc mới được. Sao tốt lành là: kim, thủy, nhật, nguyệt, đó là tứ tú hội hợp 1 chỗ, nên gọi là (hỗn thiên khai bảo chiếu, kim thủy Nhật Nguyệt phùng). Dục tri Tứ cát, hội hà cục Hư nhị, quỷ cứ, câm cơ lục Tất lai bản cung, chi tại Tam Khuê ngũ, dực thất, tương kế lục Thức đắc âm, dương thuận nghịch tâm Ngã kim lập pháp kham truyền thuật Dương độn tiên tiên, thuật vị Âm độn thoái cung nghịch vị Giải nghĩa: Muốn biết 4 sao lãnh hội ở cục nào thì: Sao hư ở cung thứ 2, sao quy ở cung 4, sao cơ ở cung 6, sao tất ở bản cung, sao chi ở cung 3, sao khuê ở cung 5, sao dực ở cung 7 nối tiếp nhau. Phải biết phép thuận nghịch của âm dương mới tìm được. Nay tôi lập pháp truyền lại cho biết là: Quẻ độn là dương thì tiến về phía trước mặt, đi thuận vị; quẻ độn là âm thì lùi lại về cung đằng sau, chuyển ngược lại đi
BỔ TÚC PHÉP KHỞI ĐỘN TỨ CÁT TÚ, TRONG THẤT ĐIỆN (7 SAO, Ở HÀO) TRÌ THẾ PHIÊN ÂM BÀI QUYẾT CA
Thất diệu cầm tinh, hội giả hy Nhật hư, nguyệt quỷ, hỏa tòng cơ Thủy tất, mộc chi, kim khuê vị Tứ thể du tòng, dực tú suy Nghĩa là: 7 vị cầm tinh thì ít khi hội hợp, nhật là sao hư, nguyệt là sao quỷ, hỏa là sao cơ, thủy là sao tất, mộc là sao chi, kim là sao khuê. 4 vị thổ thì theo sao dực mà suy tìm
LỤC GIÁP QUẢN TÚ THI
Giáp Tý giác hê, Giáp Tuất hư Giáp Thân sâm vị, Ngọ phùng chi Giáp Thìn ngộ không vong phùng quỷ Thử thị lục Giáp khởi tú thi Nghĩa là: Giáp Tý thì sao giác, Giáp Tuất sao hư, Giáp Thân sao sâm, Giáp Ngọ sao chi quản, Giáp Thìn sao quỷ, Giáp Thân: đó là bài thơ của 6 Giáp khởi sao quản cục. Đó là bài thơ của 6 Giáp Khơi sao quản cục.
BỔ TÚC VỀ SAO QUẢN CỤC CỦA 24 HUYỆT CHÂU BẢO
Bính Tý sao thất, Đinh Sửu sao Bích Mậu Dần sao khuê, Kỷ Mão sao lâu Canh Thìn sao vị, Tân Kỵ sao mão Nhâm Ngọ sao tất, Quý Mùi sao chủy Giáp Thân sao sâm, Ất Dậu sao tĩnh Bính Tuất sao quỷ, Đinh Hợi sao liêu Canh Tý sao ngưu, Tân Sửu sao nữ Nhâm Dần sao hư, Quý Mão sao nguy Giáp Thìn sao thất, Ất Tị sao bích Bính Ngọ sao khuê, Đinh Mùi sao lâu Mậu Thân sao vị, Kỷ Dậu sao Mão Canh Tuất sao tất, Tân Hợi sao chủy
NHỊ THẬP BÁT TÚ TỨ CÁT BẢO CHIÊU THỨC TẦNG 17: ĐỊNH TỨ CÁT, TAM KỲ, BÁT MÔN, CỬU TINH; TỬ, PHỤ, TÀI, QUAN, HUYNH ĐỆ, LỘC MÃ, QUÝ NHÂN, ĐÁO PHƯƠNG, ĐỊNH CỤC
Co dãn 60 long thấu địa, gọi là thiên Kỷ, hay thấu địa quang bảo đó là mộ thừa khí; đưa khí tốt vào huyệt, Tiên Thánh nói: Núi sông có linh thiên mà không có chủ; hài cốt có chủ nhưng không có linh thiêng. Người chết còn linh gì được ? Chẳng qua là cái khí thiêng của núi sông tụ lại, là chân long kết huyệt, chung đúc khí tinh anh lại 1 chỗ, làm cho hài cốt ấm áp, trong sạch, thì cái tinh khí ấy truyền vào con cháu, được thấm nhuần mà phát sanh ra người tinh anh v.v… Như: 12 vị thiên can lai long, trong vòng đó có 1 huyệt gặp được vị châu bảo, còn xê dịch sang hai bên tả, hữu là vị cô hư, sát diệu, không vong. Cách một huyệt hỏa khanh ở bên tả và hữu lại có 2 huyệt có thể kết được. Như vậy là có 3 huyệt phát phúc. Như: trong 12 long địa chi nhập thủ, thì mỗi long có 2 huyệt, là chân bảo. Trong 12 chi, mỗi chi có 5 chữ Tý, cộng lại thành 60 hoa Giáp hợp với 12 thiên can trước là 72 long xuyên sơn nhập thủ chỗ tọa huyệt. Khi đặt La kinh thì phải đặt ở chỗ kết huyệt, thừa đúng chỗ lý khí của loan đầu, mà chỉ dùng xem 60 long thấu địa thôi, xuyên sơn long không cần phải dùng đến ở đó. Lấy thấu khí vào quan, ở sau huyệt, khoảng 8 thước (thước Đông phương). Những long thuộc về địa chi, ở giữa chỗ phùng (2 mép khép lại) là hỏa khanh, tối kỵ, không nên đặt quan tài vào đó, mà phải thấu vào long huyệt châu bảo, ở 2 bên tả, hữu hỏa khanh. Học giả khi đăng sơn xem đất, trước phải chiêm nghiệm những ngôi đất cũ, từ xưa nay, hãy còn danh tiếng tích, thì mới biết phép thừa khí, phân biệt được xấu, tốt đã, sau mới đoạt được Thần công, thắng tạo hóa. Sau đây, trình bày về 24 ngôi châu bảo thấu địa long và liệt đô về kỳ môn, tử, phụ, tài, quan, quý nhân, lộc mã, ngũ thân, sa, thủy.
GIẢI THÍCH VỀ TỬ, PHỤ, TÀI, QUAN, HUYNH ĐỆ GỌI LÀ NGŨ THÂN
Thấu địa kỳ môn lục Giáp, chia làm 2 thứ độn là âm và dương 1- Dương sinh ở Giáp Tý, là dương độn thì thuận khởi lục nghi nghịch bá tam kỳ 2- Âm sinh ở Giáp Ngọ, là âm độn thì nghịch khởi lục nghi thuận bá tam kỳ. Sự cần thiết là thu được sơn của tứ cát, phác được thủy của tam kỳ, tọa vào các phương lộc, mã, quý nhân, phải kỵ cho ngũ hành quan sát tránh chỗ âm, dương, sai thác, bỏ những tinh thần án phục, thì lấy được những độ thanh kỳ của bát can. Lấy đó mà lượng sa, tính thủy thì không sai. Phép định huyệt thì lấy hỗn thiên Giáp Tý làm chủ trong 60 long, 12 chi, mỗi chi chiếm 5 ngôi. Chia các tinh độ thuộc ngũ hành của 6 Giáp Tý ra, thừa khí ở đó. 60 thấu địa long, tọa huyệt làm nội quái, do hỗn thiên Giáp Tý để xét sơn thủy tốt, xấu làm cần thiết, lấy quý nhân, lộc mã, hoặc tam kỳ là Ất, Bính, Đinh, tứ cát là kim, thủy, nhật, nguyệt. Ngũ thân là sa, thủy, tử, phụ, tài, quan, huynh đệ để tọa huyệt, hợp được sơn của 8 phương. Nếu được kim, thủy, nhật, nguyệt chiếu hướng, hoặc được tam kỳ tú bạt là sơn hữu lực, hoặc các phương tử, phụ, tài, quan, huynh đệ, có cao phong viên tú hữu lực; hoặc quý nhân, lộc mã cũng phù hợp hóa là đất thượng hạng. Quyết định phát xuất công hầu, khanh tướng, sinh người trung trinh, nhân hậu, anh tài. Còn nếu hợp được tam kỳ, tứ cát, tất sinh ra người kinh khôi, hào kiệt, liệt sĩ, anh hung. Pháp này đời nay hiếm người biết đến. Tiên Thánh tạo ra các quẻ kỳ môn là để sử dụng các tinh độ biết cách tự nhiên mà xuất. Các học giả hậu thế phần nhiều là chưa biết nay lục ra thêm 4 tầng để khỏi bị thất truyền, dùng hay không tùy ý. Khí Bính Tý ở chính long Nhâm, là tiết đại tuyết, hạ cục, khởi đầu từ Giáp Tý, Mậu Thân là phù dâu, là nghịch độn tại cửu cung, là quẻ trạch thủy Æ Khôn, thuộc kim, sơ hào là khuê mộc lang chủ trì (trì thế)
SỐ CÁC HÀO ỨNG Ở CUNG VỊ GẶP SƠN
Thượng lục Cửu ngũ Cưu tứ Lục tam Cửu nhị Sơ lục Ngưng Ngưng Ứng nhập Nhập Ngưng Thế nhập Đinh Mùi Đinh Dậu Đinh Hợi Mậu Ngọ Mậu Thìn Mậu Dần Phụ mẫu Quý nhân, huynh đệ Quý nhân, tử tôn Quan tinh Phụ mẫu Dịch mã, tài tinh Độn được Mậu Thìn thì phụ mẫu tại Lục Kiền; Mậu Dần thì tài mã tại trung cung. Kỷ Cấn, Mậu Ngọ thì quan tinh độn nhất Khảm; Đinh Hợi thì tử tôn. Quý nhân ở trung cung. Kỷ Cấn, Đinh Dậu thì huynh đệ. Quý nhân tại Tốn; Đinh Mùi thì phụ mẫu tại Chấn cung. Hưu môn tại Chấn, xung tinh tại Khảm. Đinh Kỳ đáo Tốn, Bính kỳ đáo Chấn, Ất kỳ đáo Khôn, Tứ cát tại Cấn, sao thất hỏa chư quản cục.
LỤC HÀO NỘI VÔ LỘC SƠN
(trong 6 hào không có lộc sơn) Khí Canh Tý ở chính long Tý Tiết đông chí, khởi Giáp Tý ở cung thất (cung 7) Giáp Ngọ ở cung Khảm, là phù đầu Quẻ Chấn, là quẻ lôi thủy giải thuộc mộc Hào 2 là tâm nguyệt hồ trì thế
CÁC HÀO SẼ ỨNG Ở CUNG VỊ GẶP SƠN
Thượng lục Lục ngũ Cửu tứ Lục tam Cửu nhị Sơ lục Vào Ứng vào Ngưng Vào Ngưng thế Vào Canh Tuất Canh Thân Canh Ngọ Mậu Ngọ Mậu Thìn Mậu Dần Tài tinh Quan, lộc, tinh Tử tôn Tử tôn Tài tinh Huynh đệ, dịch mã Độn được Mậu Dần thì sơn huynh đệ ở Chấn; Mậu Thìn thì tài tinh ở Khôn; Mậu Ngọ thì tử tôn ở Đoài; Canh Ngọ thì tử tôn ở Tốn; Canh Thân thì quan tinh ở Ly; Chấn lộc ở Ly; Dịch mã ở tam Chấn, vô quý nhân. Canh Tuất thì tài tinh tại Cấn; tứ cát tinh tại Khảm; Hưu môn tại Đoài, anh tinh tại Khảm. Đinh Kỳ tại Tốn. Bính Kỳ ở trung cung, Ất kỳ tại Kiền, là sao ngưu kim ngưu quản cục.
LỤC HÀO NỘI VÔ QUÝ NHÂN, PHỤ MẪU, NHỊ SƠN ĐỒ
(Trong 6 hào không có 2 sơn: Quý nhân, phụ mẫu) Đinh Sửu khí ở chính quy long, Tiết tiểu hàn, hạ cục được quẻ phong thủy hoán, ngũ cung khởi Giáp Tý, Giáp Tuất là phù đầu. Kiền cung thuận độn thuộc hỏa, ngũ hào. Mão nhật kê trì thế.
CÁC HÀO SẼ ỨNG Ở CUNG VỊ GẶP SƠN
Thượng cửu Cửu ngũ Lục tứ Lục tam Cửu nhị Sơ lục Ngưng Ngưng thế Vào Vào Ứng Vào Tân Mão Tân Tị Tân Mùi Mậu Ngọ Mậu Thìn Mậu Dần Phụ mẫu Huynh đệ Tử tôn Huynh đệ Tử tôn Phụ mẫu Độn được Mậu Dần thì sơn phụ mẫu ở nhất Khảm; độn được Mậu Thìn thì tử tôn ở cửu (9) Ly; Mậu Ngọ thì huynh đệ tại Khôn; Tân Mùi thì tử tôn tại tam (3) Chấn; Tân Tị thì huynh đệ tại tứ (4) Tốn; Tân Mão thì phụ mẫu tại Khôn cung; tứ cát tại lục (6) Kiền; Chấn lộc tại ngũ (5) là trung cung ký Khôn. Đinh kỳ tại Khôn, Bính kỳ tại Chấn. Ất kỳ tại Tốn; tài, quan, lộc mã, quý nhân đều không. Bích thủy du quản cục
BÁT QUÁI VÔ TÀI, QUAN, QUÝ, MÃ SƠN
Tân Sửu khí chính cửu long Tiết đại hàn trung cục Cửu cung khởi Giáp Tý, Giáp Ngọ là phù đầu, tam Chấn là quẻ độn thuận, được quẻ phong sơn tiệm thuộc thổ, Tam hào tâm nguyệt hồ trì thế.
CÁC HÀO SẼ ỨNG Ở CUNG VỊ GẶP SƠN
Thượng cửu Cửu ngũ Lục tứ Cửu tam Lục nhị Sơ lục Ứng Ngưng Vào Ngưng Vào Vào Tân Mão Tân Tị Tân Mùi Bính Thân Bính Ngọ Bính Thìn Quan tinh Phụ mẫu Huynh đệ Tử tôn Phụ mẫu Huynh đệ Độn được Bính Thìn thì huynh đệ tại Đoài; Bính Ngọ thì phụ mẫu tại Kiền; Bính Thân thì tử tôn tại trung cung ký Khôn; Tân Mùi thì huynh đệ tại Đoài; Tân Tị thì phụ mẫu tại Cấn; Tân Mão thì quan tinh tại Ly; Ất kỳ ở Cấn, Bính kỳ ở Đoài, Đinh kỳ tại Kiền, Quý nhân tại Kiền, lộc mã không; hưu môn tại Đoài 7; Bông tinh tại Khảm, tứ cát tại Chấn
LỤC HÀO - VÔ LỘC - MÃ SƠN
Mậu Dần khí chính Cấn long Tiết lập xuân hạ cục Khởi Giáp Tý tại nhị Khôn; Giáp Tuất là phù đầu; Tam chấn thuận độn, được quẻ Địa sơn khiêm thuộc kim; ngũ hào sao phòng nhật thổ trì thế.
CÁC HÀO SẼ ỨNG Ở CUNG VỊ GẶP SƠN
Thượng lục Lục ngũ Lục tứ Cửu tam Lục nhị Sơ lục Vào Vào thế Vào Ngưng Ứng vào Vào Quý Dậu Quý Hợi Quý Sửu Bính Thân Bính Ngọ Bính Thìn Huynh đệ Tử tôn Phụ mẫu Huynh đệ Quan tinh Phụ mẫu Độn được Bính Thìn thì phụ mẫu ở Ly; Bính Ngọ thì quan tinh tại Cấn; Bính Thân thì huynh đệ tại Đoài; Quý Dậu thì huynh đệ tại Khôn. Đinh kỳ tại Cấn, Bính kỳ tại Ly, ất kỳ tại Khảm. Dịch mã tại Đoài, tứ cát tại Chấn 3. Quý nhân tại Kiền, nhuế tinh tại Khảm. Tài, lộc đều không, khuê mộc lang quản cục.
LỤC HÀO, VÔ TÀI, LỘC SƠN
Nhâm Dần khí ở chính Dần long Tiết vũ thủy trung cục Kiền cung khởi Giáp Tý; Giáp Ngọ là phù đầu. Ly cung tuận độn hành, được quẻ Hỏa sơn lữ thuộc hỏa. Sơ hào sao tinh nhật m&a