Số 34: Giải Giác hồng trần
Lúc tâm thần bình tĩng biện bạch đôi lời “ cổ ngữ” lưu truyền. Có lời của Đức
Phật tổi tù tôn nói rằng, tiên giác nhi hậu giác tha.
Nghĩa: Biết trước cho người khác biết sau, Đời nhà Hớn: có ông Hàn Công nói rằng, Biết mà không nói, thì đại bất nhơn.
Nói không đủ lời là đại bất nghĩa.
Vì vạy mà xét phận hỗ thầm nên tôi gắng công tìm soạn trích lục đạo trong chốn hồng trần, xin kết dưới đây.
Cuộc Tam Hoàng Xuất Thế,
Trên mới có đức Thiên Hoàng Thượng Đế.
Dưới mói có đức Thiên Hoàng Hạ Đế.
Dưới nữa có Đức nhơn Hoàng Hạ Đế.
Trời có Nhựt, nguyệt Tinh. Đất có Thủy Hỏa Phong, Người có Tính Khí thần. Lời kết luận
Trời có Dương Khí, đất có Am Khí,
Am dương tương hiệp mới được hóa sanh. Chừng ấy mới hóa tượng thành khi ngủ thái. Nhứt, khí thái duyệt sanh thủy,
Nhì, khí thái sơ sanh hỏa, Tam, khí thái thủy sanh mộc, Tứ, kí thái tố sanh kim,
Ngũ, khí thái cực sanh thổ, Chừng ấy phù tam ngươn kỳ cực.
Kết thành tam bửu, ngũ hành thiên can, địa chi, cửu tinh, nhì thập bát tú. Đồng thọ mạng lịnh của Đức Thiên Hoàng tạ trấn bốn phương tám hướng.
Lại con khắp cả thế gian có năm vị: Đông phương: Thanh Đế thuộc mộc, sắc xanh, Nam phương: Xích đế thuộc hỏa, sắc đỏ,
Tây phương: Bạch đế thuộc kim, sắc trắng, Bắc phương: Hắc đế thuộc thủy, sắc đen. Trung phương: Huỳnh đế thuộc thổ, sắc vàng.
Ơ trong thế giớ có năm vị trấn khắp cả ngũ phương.
Lại còn Thập Thiện Can, tức là mười vị thần.
Hai mươi tám vị tinh tú, trấn thủ khắp cả càng không.
Con nội trong trung ương thêm có thần năm, thần thánh, thần ngày, thần giờ, hành sự chuyển khiến cho người ở thế gian, hoạ phước báo ứng, theo vận mạng và ứng hiện
cho nhơn thể.
Trong nhơn thể có phù tam, đượng Tính Khí Thần.
Nghĩa: Tinh là trai cật, thuộc là thủy tinh.
Khí là hơi thở, thuộc mộc là khí. Thần là hồn, trái tim thuộc hỏa là thần.
Trong nhơn thể của người nhờ 3 vị thần hồn, mới sống được, trong nhơn thể có ngũ hành, tức là ngũ tạng.
Bộ tâm thuộc hỏa Bộ cang thuộc Mộc
Bộ tý thuộc thổ Bộ phế thuộc kim
Bộ phận thuộc thuỷ
Nhơn thể có đủ ngũ hành, nếu không biết xử trí, thì nó hoá thành ngũ quỷ.
Có lục phủ, không biết xử trị, thì nó hóa thành lục tặc.
Có thất tinh, không thông biến, thì nó hóa thành thất tình, Cứu tinh, không thông dụng, thì nó hóa thành trí độ.
đạt.
Có thập niên cang, không mở đường thông huệ, thì nó hoá thành mất đường hiển
Có thập nhị địa chi, không luyện tập chí khí, thì nó hóa thành vô thần khiếp
nhược.
Đây là bộ máy huyền cơ của hóa chuyển động lòng trời đất biết trước rồi. Ngày những đêm phải dùng cái phép bình tâm, tịnh trí suy xét để chống trị các
phái vô lương, trong lòng có mới sanh biến, nên diệt trừ các loạn thần trong nhơn thể, phải giữ dạ vô tư, đừng cho bọn ngũ quỷ, hiệp với bọn lục tặc, làm Điều lộng lạc, tung hoành, nếu để vậy lâu ngày có thành tánh rồi nó hành sự như sau đây, kiếp đâu để chị luân hồi đền tội cho đủ.
Sớm sửa tánh, để tránh một trăm ba mươi mốt Điều tôi kể sau đây.
Bộ Khẩu
Tại cài miệng ăn nói chẳng lành, Căn Nào _ Quả Nấy
Kinh Thiên, Thị Địa: Bá hoạ giảng ương,
Kinh Thánh, Thị Thần:
Cầu nguyện vô linh,
Mắng gió chửi mưa: Ngày cuồng đền tội, Thờ Phật lấy danh: Phi tai lai vảng,
Bội nghịch mẹ cha: Hậu kiếp mồ côi, Khi thị thân tộc: Bà con xa cách, Hổn ẩu anh em: Cô độc một minh, Bộ nghịch luân lý: Hoạ sanh nan cứu,
Chê người rách lạnh: Chuyển kiếp cơ hàn, Kiêu cách khi người: Chịu kiếp vô duyên, Sanh con không dạy: Hoạ họa trùng lai, Biết mà không nói: Bị đều lầm lạc,
Dùng linh cảm hoặc: Mắc mưu liên luỵ, Giả oai hiếp người: Con cháu khiếp nhược, Chỉ đường lạc nẻo: Nhản mục vô quang,
Lời nói chẳng lành: Nhá họa liên sanh, Gạt gái bỏ gái: Vợ bỏ thình linh, Lường trai bỏ trai: Chồng bỏ bất ngờ,
Đặng thờ chê thất thế: Suy sụt nan cầu, Được sanh chê hèn:Đáo đầu bần bạc,
Được mạnh chê yếu: Chịu đời suy nhược,
Được khôn chê khờ:
Lản tâm mất trí,
Xúi con hiếp người:Chịu đời thát thế,
Xúi kiện thưa người: Con cháu bất hoà, Xúi vợ chồng tan rã: Gia đạo linh đinh, Chê người cực khổ: Chuyển phú hóa bần,
Thị chúng hiếp cô: Họa sanh nan giải, Cố ý ăn lường: Chịu Điều thua lặn,
Thèo lẻo chuyện người:
Tổ tiên phiền giận,
Miệng hay nói láo: Khó lập thân danh,
Đặt chuyền thình lình: Ngọng liệu líu lo, Gạt người lấy của: Chuyển kiếp thua lường, Huỷ hoại vợ chồng:Kiếp sau lẻ bạn,
Truyền khôn bất chánh: Trả quả loạn tâm,
Phân vân ngạo biến: Bằng hữu khinh thương, Thề mà không nhớ: Oan ương đền tội,
Chê thì người phường:
Con cháu oan ương,
Khinh bỉ nhơn tình: Vô gian bạc phận, Chê thị quê hương: Đổi đời nhiều xứ,
Nhờ người gạt người:
Chịu đời thất thế,
Hồ đồ hổm ẩu: Ngọng liệu điên cuồng, An không độ món: Biến sanh bịnh hoạn, Nói không độ lời: Tai họa thường sanh,
Bộ Tâm
Tại sanh tam Điều chẳng lành, Căn Nào – Quả Nấy.
Bỏ mồ ly loạn: Ba đời lưu lạt,
Hủy hoại lúa gạo: Thiếu ăn thiếu mặc, Em côi anh bỏ: Giản cảnh thất thời, Thọ ân báo oán: Con cháu thất thời,
Tánh hay ghét người: Con cháu vô duyên, Hủy hoại của tiền: Giản cảnh bần hàn,
Đốt nhà phá của: Hoang đàng lưu xứ, Sát sanh cầu thọ: Ac lai quả báo,
Sát sanh cầu lợi: Lão lai thọ khốn, Nuôi thú bán con: Con cháu phân ly, Giết mẹ bắt con: Chuyển kiếp mồ côi,
Thiến con lượm trứng: Tuyệt tử vô tôn, Mưu mô phản bạn: Bằng hữu bất trung, Bội ơn bạc nghĩa: sanh con ngổ nghịch,
Giết người đoạt của: Làm heo chín kiếp, Giữ của lòng tham: Làm chó một đời,
Hại dân khuấy chúng: Câm đuôi diệt cùi,
Làm ăn bất lương: Con cháu cơ hàn,
Quen người đoạt vợ:
Ngục gia nghiệp chướng,
Tiền dâm hậu thú: Sanh con bất hiếu,
Dùng lửa hại người:
Loạn tâm loạn trí,
Chứa kẻ gian tham: Ngục hình quê ngục, Phá cầu đào lộ: Oan gia nghiệp chướng, Rào đường lấp ngõ:Lo việc không thành,
Bỏ người hoạn nạn:Cầu phước vô linh, Lợi mình hại người:Tài tan khó giữ,
Gian công lườn của: Chịu đời lầm lạc, Giả nghệ đạt tài: Tai ương quả báo,
Ơn bỏ oán nhờ: Phước ít hoạ nhiều,
Thuốc hay không cứu: Có bịnh oan gia,
Thuốc độc hại người:
Oan gia chết yểu,
Lương y giả trị: Báo quả ba lời,
Đo gian đong thiếu:Luân hồi thiếu hụt,
Binh người đặng thế: Chuyển kiếp nhất thời, Mua lận bán lường: Tiền tài nạn thủ,
Dùng sức loài vật: Chuyển kiếp lao suyễn
Hành khổ tôi tớ: Con cháu suy tồi,
Lường công đoat của: Con cháu bồi thường, Mưu kế sâu độc: Căm khùng đền tội,
Tranh Điềun đoạt thổ:
Con cháu phá tan,
Thọ thai bỏ chồng:
con nghịch với cha,
Thọ thai làm ác: Con chịu hàm oàn, Cố đâm ép người: Thê loạn hữu quyền,
Gái không trung tiết: Chuyển kiếp ghen tương, Khoe tốt đoạt tài: Mắt mưu mất của,
Trước thân sau phản: Vô duyên bất tính, Đánh hiếp người hiền: Thường sanh tai biến, Tánh tình kiêu thái:Tạo lập không thành,
Tranh danh đoạt lợi: Người lìa của tan, Hại làng phá xóm: Phiêu lưu đất khách, Nghề hay không dạy: Con cháu bất tài, Dùng tà ma hại người: Đau oan trái bịnh, Được giàu phụ khó:Giữ của không bền,
Làm nghề lột da: Rách lạnh đơn phương, Làm nghề cắt họng: Tứ sát huỷ mình, Tự gian làm loạn: Tai họa an khiên,
Bộ Can:
Tại gan mật muốn làm Điều chẳng lành, Căn Nào – Quả Nấy
Y mình sức mạnh: Có ngày chúng đánh, Gần người hung dữ:Lây họa liên can,
Vào rừng săn bắn: Tai họa thình lình, Tánh giận quá độ: Hư gan sanh bịnh, Hành hung làm giữ:Tai hoạ không chừng, Giết người đỡ giận: Chung thân thọ khổ,
Bộ Tỳ:
Tại hồ khẩu ăn nói chẳng lành, Căn Nào – Quả Nấy
Phạm tội Đất Địa: Bịnh suy tuỳ vị, An vật phong độc: Tỳ vị sanh trùng, An no quá độ: Tỳ vị hư trệ,
An nhăm vật kỵ:Tuỳ suy bạc số,
Bộ Phế:
Tại hồ khẩu ăn nói chẳng lành, Căn Nào – Quả Nấy
Khinh thị kim ngân:Bị suy lá phổi
La ré nạt nộ: Hao hơi yếu phổ,
An uống thiệt cay: Nám khô lá phổ,
Vỗ ngực xung hô: Phổi động sanh ung,
Bộ Thận:
Tại hồ khẩu ăn nói chẳng lành, Căn Nào – Quả Nấy
Tháo nước lấp giếng: Thận suy bế tắc, Nước có không cho: Thủy không ký tế, Dâm dục quá độ: Thận kém sanh lao,
An vật nóng nảy: Thận suy khô kém.
Bộ Nhĩ
Tại cái nghe nên tâm tánh chẳng lành, Căn Nào – Quả Nấy
Chẳng nghe lời lành: Con cháu hung ác, Không nghe thấy dạy: Con cháu ngỗ nghịch,
Nghe lời chẳng lành:
Con cháu ngu ngoan,
Nghe rên không trợ: Cầu phước không lành, Tìm nghe mật sự: Cơ mưu thất bại,
Bộ Nhãn:
Tại mắt thấy, tâm sanh ý chẳng lành, Căn Nào – Quả Nấy
Thấy nên lòng ghét:
Vận thanh phi tiều,
đây.
Thấy hư chê cươi: Khó nổi, lập thân,
Thấy đánh không can: Lâm nạn cô thế, Thấy sắc cố đâm: Vợ con tâm lạng,
Thấy của gian tham: Quán mạnh báo quả, Thọ ơn không đền: Làm ăn thất thế,
Người ở chốn hồng trần, tốt việc đời rồi. Không thoát khỏi cuộc luân hồi kể dưởi
“Phú Quý” Bần Tiền, Tật Ach
gọi là lục đạo lận lận hồi, chuyển kiếp, bởi chốn hồng trần này người làm phước
ít, làm tội rất nhiều, như tội kể trước đây.
Nếu muốn giải thoát chốn luân hồi đày đoạ, thì phải bình tâm thiện tánh lại, tìm cách sửa đổi cái tất lòng lại.
Đừng: quá ham, quá vu, quá sầu, quá giận, quá ghét, qua thương, quá ham, quá oán, quá thù, quá dục động, quá nghe lời.
Tác giả vi công bình vì thù.
Nghĩa: Làm việc chi, lấy công bình làm đầu.
Tâm phải bình tịnh hỏa hườn, hàng ngày giữ lòng được như vậy, thì thoát khỏi bốn cửa luân hồi đồ khổ, lại được đạt lộ tiêu diêu tự tại, an thân.
Trong bản yếu thiết chơn kinh của nhà đạo Thiên Lâm có nói căn nào quả nấy. Trong bản sách số Diễn Cầm Tam Thế, của Đức Bồ Đề lão Tổ nói rằng, cuộc luân hồi báo quả, có chuyển kiếp hiện chắc quả thiệt có.
Trong sách số Tam Thế nói rằng:
Phật đạo từ bi, quỷ đạo gian, Nhơn đạo hòa đồng, sức đạo sàm, Duy Hữu tu la năng chủ sự,
Quỷ súc chi nhơn quái lẫn tham.
Chú giải:
Đem cái bộ tâm đên chỗ thương nhơn vật, là tâm thành phật đạo. Đem cái bộ tâm đên chỗ hại nhơn vật, là tâm thành quỷ đạo. Đem cái bộ tâm đên chỗ hòa động, là tâm thành nhân đạo.
Đem cái bộ tâm đên chỗ khinh ngạo, là tâm thành súc đạo.
Đem cái bộ tâm đên chỗ làm tròn bổn phận, là tâm thành công đạo. Đem cái bộ tâm đên chỗ gian nịnh, là tâm thành gian đạo
Nếu xem xét cái tâm chí hàng ngày đều sửa trị cái bản tâm, cho bình tịnh an thần, biết giác ngộ, tự tỉnh phải khuyến dỗ bọn lục lang ở tâm, cho nó biết tự hòa thuận, rồi mới tìm đường được giải giác hồng trần thấy thông đường đạc lộ.
Lời: Trưng bằng hộ chứng
Tìm kiếm điển tích của nhà phật đạo, và sự tích của các chủ đại Tiên ông, chêm đạo nho các vị thất thập nhị hiền.
Hội Tam Giáo đều có nhận rằng:
Trong nhơn quả phải có quả báo, lại thêm đạo Thiên Chúa Giáo có nhân cuộc báo quả. Nếu người có lưu tâm huệ cố trong thế sự, thì hiện thấy cuộc báo quả nhãn tiền tại thế. Còn cuộc luân hồi, nhờ có kinh sách có ghi chép sự tích truyền lại cho hậu thế, chuyện có rõ ràng.
Trong sách Ma Y Thần tướng của ông Trần Hi Di Tiên Sanh ở Hoa Sơn, ông nói rằng: lòng người chánh thì hình dạng chỉnh tề, lòng người tà thì hình dạng đi thấy bộ tướng xao xuyến không an tịnh.
Như trong lòng tà chánh, còn xuất hiện ra ngoài nhơn thể, hà tất chi cuộc thiện ác đáo đầu không kết quả sao được.
Phân Giải Hạn Kỳ Báo Quả
Vì lẽ gì người đau làm lành? Tại sao có hoạn nạn không an?
Đoa là cái oan khiên nghiệp chướng của ông bà, hoặc của cha mẹ, hoặc trước
mình tạo ác, chưa kịp đến, hoặc đến chưa rồi, kiếp này đang còn trả quả tiền khiên, vậy khá nên vui lòng lo đền trả. Còn đang làm Điều thiện sự hiện thời thì cứ việc làm,
để lo đền cái ác quả cho đủ rồi, nếu mình còn sống, thì được hưởng cái thiện quả, trong lúc cảnh già.
Hoặc làm làm vừa rồi kế mãn số, thì cái thiên quả để lại cho con cháu hưởng, và kiếp sau mình chuyển kiếp trở lại trần gian, thì được hưởng cái công là Điều thiện quả.
Còn tại sao làm Điều vô lương?
Mà đựơc giàu sang, bởi ông bà hoặc cha mẹ, hay kiếp trước của mình làm Điều thiện tự có thi ân huệ nhiều.
Cho nên kiếp này được hưởng giàu sang. Nếu biết làm Điều thiện quả nửa thì có nối truyền duyên phước nữa.
Nếu sanh tâm bất chánh tâm đều vô lương, thì hưởng cái thiện quả xưa kia hết rồi, thì đáo đầu trở lại chịu cơ hàn, đồ khổ, thân sơ, bàn bạc.
Chừng ấy người có mãn số rồi, thì để các ác quả truyền đạt cho con cháu, phải chịu gian truân bàn bạc, thân sơ thất sở, để trủ quả vô lương ông bà tạo để lại đó, còn kiếp sau mình chuyển kiếp trở lại trần gian phải chịu trả quả vô lương, kiếp trước của
mình.
Lời Trưng bằng thí dụ:
Trồng cây thì lâu ngày có trái, được no. Trồng khoai mau ngày có củ, được no Trồng lúa mau ngày có gạo, được no.
Nếu không trồng thì không trái củ, thì bị nhịn đói. Còn cả gan lớn mật phá huỷ lấy ăn không của người thì bị tội tình, lấy đó mà suy xét trong cuộc luân hồi báo quả.
Bài: An Thần Tự Tinh
Cái bản tâm mình biết sử dụng nó thành tâm thần. Nếu không biết sử dụng nó thành tà tâm.
Dầu thần hay là tà, cũng tự mình giáo dưỡng nó hiện hình, mình không xem nghiệm quan sát, để cho nó được trọn quyền rũ nhau đồng làm Điều phạm tội, thì cái tội của nó làm rồi rốt chuyện, cái họa khổ của nó, nó để cho cái nhơn thể thân hình chịu đánh đập, cho tan da nát thịt đày đọa khổ hình
Vây phải có anh tâm làm, anh Thân chịu khổ nạn. Vậy mình quang minh rồi, phải can thiệp chi kịp thì kẻo để anh Thân, vì anh Tâm mà chịu đại họa khổ hình.
Vậy mình phải biết cảm hóa anh Tâm cho biết tỉnh ngộ, đừng cho anh Tâm làm Điều lộng lạc tung hoành, phải khuyến thiện cho ảnh biết đạo lý công bình chánh kỹ, tồn tam huý, cư xử ta tư, biết tìm đường tứ nghiệp, biết phấn khởi giác tha, mỗi ngày ưu tam tinh, nhựt nhựt thường niệm, mạc vong tâm. Được như vậy, thì mới thấy được lợi lộ
hoằng khai.
Đôi chuyện trớ trêu
Tại sao người làm lành, tánh chí trung lương an hòa, luận lý, hiếu đạo tề gia, lập thân chánh kỹ.
Tại sao sanh con, rất hùng cường, lại có tánh sát nhơn, làm Điều hung tợn.
Tại sao người làm ác, tánh tình bạc hậu, nghịch thường phi lý, ngỗ nghịch tung hoành, hung ác lập oan.
Tại sao sanh con rất hiền hậu, lại có tánh kình nhường làm Điều nhẫn nại.
Chú giải:
Lấy Điều suy cổ nghiệm kim, thì nhận thấy mấy vị phụ mẫu của Hoàng Thái Tổ, và mấy vị mẫu nghi, vốn người trung lương biết lập chí, làm Điều thiện sự, có tánh an hoà khoan hồng thái độ.
Cha thì có tánh trung lương, mẹ thì gìn giữ tứ đức, lại thêm biết giáo dưỡng thai nhi, làm điều hóa.
Bỏi thế cho nên sanh con có cái chí lớn, dám đem thân ra bồi đắp non sông, giết kẻ loạn, cứu an bá tánh, giết quân xâm lăng, giữ biên cương, trăm họ được an cư. Có phải là cha mẹ hiền, sanh con hung đữ xem coi có phải vậy chăng?
Xưa nay những người bội thiên nghịch địa, bội lý, nghịch thường, vong ân, bạc nghĩa, can cường bỏ phép công bình, hung hăng, hồ đồ, bát thọ, giáo huấn, gian trá, phi thường, lại thêm không biết cách luyện tập thai sanh, để làm ác sự.
Nên sanh con nó có cái tánh bất trung, bất hiếu, bất từ, đến khi đáo đầu nhập
ngục rồi, nó bị đánh đập, không chống kình lại, bị mắng, chửi cũng nhẫn nại, làm thinh, dầu hình hài tấm thân đến nỗi tan da nát thịt, cũng chẳng nói đôi co chi nữa, chừng ấy mới có tánh an hoà nhẫn nại, hiền hậu, suy nghĩ coi có phải vậy chăng?
Kính tặng chư đọc giả, có câu nào dư thiếu xin lượng thứ, tôi rất cám ơn.
KHƯƠNG ĐỨC Kính tặng.
Đôi hàng kính tặng
Kính trình Liêt vị khán quan,
Dày công diễn nghĩa vẹn toàn quyển ni.
Hiệu sách Tam Thế vậy thì, Coi là thường sự dễ chi hiểu rành, Đoán năm, tháng, ngày, giờ sanh.
Coi biết căn kiếp đành rằng chẳng sai.
Đến ngày nhuỵ nở hoa khai,
Cha mẹ nuôi dưỡng biết rày đặng không.
Rủi may ai khỏi trong vòng,
Ngày sanh tháng đẻ không đồng với nhau.
Coi khi lơn tuổi ra sao,
Học hành thi cử xem vào chẳng sai.
Coi số duyên nợ hôm nay,
Vợc hồng thay đổi hoặc rày hiệp tan.
Biết con nhiều ít rõ ràng,
Nương nhờ cậy đặng hoặc hoan nghịch rày.
Sang hèn cô quả cho hay,
Mình đặng tự biết chẳng sai đâu là.
Lộc trời nhiều ít cho ta,
An mặc để thiếu gầm mà số căn.
Ruộng vườn tài vật lo hằng, Có không tự số, chớ hằng tự ta. Công danh chức phận đó là,
Có không cao thập xem qua biết rày.
Nghiệp nghề sanh sống ở tay, Thuận nghề mới đặng có ngày lập nên. Muốn hiểu nhà cửa vững bền,
Hai là đậu bạc, cất lên đổi dời.
Tự xem tiền của đầy vơi,
Giàu nghèo tiền định trong đời của ta.
Quyển này đặng có trong nhà, Ay là thầy sẵn chỉ là kiết hung. Mỗi tuổi đoán rõ thuỷ chung,
Mỗi năm thời vận hạp xung chỉ rành.
Mỗi tháng may rủi phát sanh, Mỗi ngày kỵ hạp dữ lành tiên tri. Thuốc hay cứu bịnh vậy thì,
Sách này để cứ bỉ suy cho người. Biết đến sống đặng mấy mươi, Cảnh già cực khổ vui tươi thế nào. Đến ngày chung mãn cách nào, Nghiệp gì mà thác ở vào nơi đâu. Gởi thân xứ cũ ngõ hầu.
Hoặc là xứ khác ngõ âu đêm ngày, Thấy mặt con cháu hôm nay.
Thân tộc quen thuộc có rày hay không, Từ khi sanh dưỡng trong vòng,
Đến ngày nhắm mắt đủ trong quyển này.
Đơn sơ nơi vận nơi đây,
Kính chư độc giả giải khuây cơn sầu.
Xem qua tự hiểu đuôi đầu,
Chớ nên than trách buồn rầu số căn.
Bấy lâu nghe hiệu nói rằng,
Diễn Cầm Tam Thế thật hằng sách hay.
Dày công diễn nghĩa tỏ bày, Tăng chư Liệt vị nối hoài xem chung. Thi
Dương danh chép gởi để truyền đời
Công sắp nên bày rạng khắp nơi, Hầu tăng khán quan chư độc giả, Hiệu nghiệm tương lai rõ vận thời,
Khương ninh suy bỉ đều biết trước, Đức thắng tài sơ chẳng vẹn lời, Soạn thấy sót thưa mong sửa đổi,
Giả ơn đồng chủng nghĩa vơi vơi.
Khương Đức