Quyển 1 : NHẬP MÔN
Mục lục:
- Ngũ hành
- Can chi
- Lục tuần giáp
- Thập nhị thiên thần
- Thập nhị thiên tướng
- Lập quẻ
- Lục hào tượng
- Lục xứ
- Tương tỷ loại
- Trường sinh cục
- Thần sát
- Ứng kỳ pháp
Quyển 1 bao gồm những khái niệm cơ bản, các điều kiện cần thiết để cấu tạo nên một quẻ, cách lập quẻ, để dẫn giải trước mọi cách tính toán và lời đoán khi học đến các tập sau. Nếu chưa hiểu, thuộc lòng Tập 1 sẽ gặp nhiều trở ngại, chậm trễ và khiến cho người học nản trí.
I / Ngũ Hành
Ngũ hành là 5 loại thể chất trong trời đất vận hành theo từng thời gian, theo mỗi sự việc. Ngũ hành chỉ khớ của năm loại chất: Thủy-Mộc-Kim-Hỏa-Thổ, lấy tác dụng qua lại giữa năm loại khí này để lý giải quy luật thay đổi và phát triển của giới tự nhiên và xã hội loài người. Muôn loài, vạn vật đều phải lệ thuộc vào vũng Ngũ hành. Tiền nhân đó thấy rõ như vậy, nên xét theo sự thật của thiên cơ mà làm ra quẻ và cũng do theo tính chất mà phân ra từng loại trong ngũ hành cho những Can, Chi, Thần, Tướng…để tính ra sự sinh khắc một khi loại này gặp loại kia, tương đối với nhau. Lại cũng do sự sinh khắc hay tỷ hòa đó mà biết được ảnh hưởng tốt xấu của vạn hữu
Bởi thế nên phải thông thuộc ngũ hành của các loại Can, Chi, Thần, Tướng…và các bài trong mục ngũ hành này mới có thể luận đoán sâu xa và chính xác khi chiêm một quẻ.
1.Ngũ hành vật thể:
Ngũ hành là 5 loại Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, có thể chất phân biệt:
- Loại Kim như: vàng, bạc, sắt, đá, chì, kẽm..v.v..
- Loại Mộc như: cỏ cây, rừng, bụi…
- Loại Thủy như: nước, mưa, sương, dầu, mỡ, hơi lạnh…
- Loại Hỏa như: lửa, hơi nóng…
- Loại Thổ như: đất, tro, bùn, bụi bặm…
2. Chủ loại thuộc ngũ hành:
Trong quẻ lúc nào cũng dùng đến 10 Can, 12 Chi và 12 Thiên t−ớng, vậy phải rõ Ngũ hành của ba loại ấy mà học nhớ cho thuộc lòng:
- Giáp, ất, Dần, Mão, Thanh long, Thiên hợp, đều thuộc Mộc.
- Bính, Đinh, Tị, Ngọ, Đằng xà, Chu tước đều thuộc Hỏa.
- Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Quý nhân, Thiên không, Thái thường, Câu trận đều thuộc Thổ.
- Canh, Tân, Thân, Dậu, Bạch hổ, Thái âm đều thuộc Kim.
- Nhâm, Quý, Hợi, Tý, Huyền vũ, Thiên hậu đều thuộc Thủy.
3. Tứ Thời thuộc ngũ hành:
Mỗi năm phân chia làm 4 mùa gọi là Tứ thời và có lẫn 4 Quý gọi là Tứ quý. Tứ thời là Xuân Hạ Thu Đông, còn Tứ quý là 4 khoảng 18 ngày sau cùng của mỗi Mùa. Mùa nào cũng có một Quý ở cuối cùng, vì Quý là cuối. Không nên lầm Tứ quý này thuộc Thổ với can Quý thuộc Thủy.
- Mùa Xuân gồm tháng giêng- 2- 3 thuộc Mộc, nhưng 18 ngày cuối cùng của tháng ba gọi là Quý xuân (cuối mùa Xuân) thuộc Thổ.
- Mùa Hạ gồm tháng 4- 5- 6 thuộc Hỏa, nhưng 18 ngày cuối cùng của tháng 6 gọi là Quý hạ (cuối mùa Hạ) thuộc Thổ.
- Mùa Thu gồm tháng 7- 8- 9 thuộc Kim, nhưng 18 ngày cuối cùng của tháng 9 gọi là Quý thu (cuối mùa Thu) thuộc Thổ.
- Mùa Đông gồm tháng 10- 11- 12 (tháng 12 còn gọi là tháng chạp) thuộc Thủy, nhưng 18 ngày cuối cùng của tháng Chạp gọi là Quý đông (cuối mùa Đông) thuộc Thổ. Theo âm lịch thì một năm có 360 ngày, phân đều cho Ngũ hành thì mỗi Hành đ−ợc 72 ngày như sau:
- Mùa Xuân 72 ngày thuộc Mộc (tháng 1- 2 và 12 ngày đầu của tháng 3).
- Mùa Hạ 72 ngày thuộc Hỏa (tháng 4- 5 và 12 ngày đầu của tháng 6).
- Mùa Thu 72 ngày thuộc Kim (tháng 7- 8 và 12 ngày đầu của tháng 9).
- Mùa Đông 72 ngày thuộc Thủy (tháng 10- 11 và 12 ngày đầu của tháng Chạp).
- Tứ quý 72 ngày thuộc Thổ (là 18 ngày sau cùng của mỗi Mùa).
4. Bát quái thuộc Ngũ hành:
Bát quái nghĩa là 8 quẻ, chỉ vào 8 phương hướng:
- Chấn phương chính Đông thuộc dương mộc.
- Tốn phương Đông nam thuộc âm mộc.
- Ly phương chính Nam thuộc âm hỏa.
- Khôn phương Tây nam thuộc âm thổ.
- Đoài phương chính Tây thuộc âm kim.
- Càn phương Tây bắc thuộc dương kim.
- Khảm phương chính Bắc thuộc dương thủy.
- Cấn phương Đông bắc thuộc dương thổ.
5. Ngũ hành tương sinh:
Tương sinh tức là sản sinh và thúc đẩy lẫn nhau.
- Kim sinh Thủy (loài Kim khí vốn sinh ra hơi lạnh và khi bị đốt thì nó chảy lỏng ra như nước).
- Thủy sinh Mộc (nước nuôi dưỡng cây và sinh cây cỏ).
- Mộc sinh Hỏa (cây dùi đốt ra lửa).
- Hỏa sinh Thổ (lửa đốt các vật thành tro, đất…).
- Thổ sinh Kim (trong đất có chứa mỏ vàng, chì, sắt,…).
6. Ngũ hành tương khắc:
Tương khắc tức là làm tiêu hao bài trừ lẫn nhau. Trong đó diễn biến tương khắc bao hàm khả năng khắc ngược trở lại.
Thí dụ: Thủy vốn khắc Hỏa, nhưng Hỏa thịnh cũng có thể khắc được Thủy suy.
- Kim khắc Mộc, vì đao kiếm chặt đẽo được cây.
- Mộc khắc Thổ, vì cây mọc từ đất ra.
- Thổ khắc Thủy, vì đất thu hút được nước.
- Thủy khắc Hỏa, vì nước làm tắt lửa.
- Hỏa khắc Kim, vì lửa đốt chảy được vàng, bạc, đồng, chì…
7. Ngũ hành tương tỷ:
Tương tỷ hay tỷ hòa cũng thế, tức là đồng một loại với nhau, như Kim gặp Kim, Mộc với Mộc, Thủy với Thủy, Hỏa với Hỏa, Thổ với Thổ.
Thí dụ Giáp với Mão cùng thuộc Mộc, Sửu với Thái thường cùng thuộc Thổ…
8. Ngũ hành tác ngũ khí:
Lấy Ngũ hành so với Tứ thời và Tứ quý xem sự sinh khắc hay tỷ hòa để biết được cái khí của nó mà luận tốt xấu. Ngũ khí gồm: Vượng khí, Tướng khí, Hưu khí, Tù khí, Tử khí. Nói tắt Vượng-Tướng-Hưu-Tù-Tử. Bài tính ngũ khí: Tỷ thời vi vượng (cùng Ngũ hành với Mùa thì Vượng). Thời sinh vi tướng (Ngũ hành được Mùa sinh thì Tướng). Sinh thời vi hưu (Ngũ hành sinh Mùa thì Hưu). Khắc thời vi tù (Ngũ hành khắc Mùa thì Tù). Thời khắc vi tử (Mùa khắc Ngũ hành thì Tử). Thời ở đây tức là Mùa, kể cả Tứ thời và Tứ quý. Bất cứ là Can hay Chi hoặc Thiên tướng…đem so sánh với Mùa về Ngũ hành mà tính ra Sinh Khắc hay Tỷ hòa để biết 5 khí.
9. Ngũ hành hung cát:
Luận đại cương về ứng điềm tốt xấu của 5 khí: Vượng: Vượng chỉ trạng thái ở nơi cực thịnh. Vượng là thịnh vượng, tiến phát lên, rất hợp với người công chức, quan chức vì là điềm cần quan lộc. Đồng loại ngũ hành với Mùa nên Mùa làm cho vượng. Tướng: Tướng chỉ trạng thái ở nơi khá vượng, đồng thời chuyển biến theo hướng cực thịnh. Tướng là mạnh mẽ, hùng cường như vị tướng, điềm làm ăn phát đạt, được tài lộc cùng bảo vật. Được Mùa sinh tức là được Mùa nuôi dưỡng cho nên được tướng khí hùng cường. Hưu: Hưu là vô sự, ngụ ý đã thoái nghỉ, nghĩa là thôi, bị ngưng nghỉ, như người làm việc đến tuổi già, yếu đau buộc phải về hưu. Hưu khí ứng điềm bệnh hoạn suy vi, còn gọi là thoái khí tức là bị hao mất khí lực. Tù: Tù là suy yếu, bị cầm tù, bị giam hãm, gông cùm. Mùa ví như Quan trên trực tiếp, khắc Mùa như hỗn xược với quan trên nên thế nào cũng bị tù tội. Tù khí ứng điềm có xu hướng tù ngục, bị tù túng, không có lối thoát. Tử: Tử là bị khắc chế mà mất hết sinh khí tức là chết, tàn lụi khô héo. Phàm bị Mùa khắc tức như tội nhân bị quan trên khắc kỵ, tất sẽ bị xử tử, điềm xấu nhất. Hai khí Vượng-Tướng đều ứng điềm tốt nên gọi là Cát khí. Ba khí Hưu-Tù-Tử đều ứng điềm hung cho nên gọi là Hung khí.
Mục 3: Lục tuần giáp
Bài 1: Lục Tuần Giáp
10 Can và 12 Chi phối hợp tuần tự với nhau tạo thành 60 đôi can chi. tính theo can thì 60 đôi can chi này được chia là Lục tuần giáp. Lục tuần giáp là 6 tuần giáp, luân chuyển có thứ tự như sau: Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần.
Mỗi tuần giáp nào cũng có 10 đôi Can Chi, vậy 6 tuần giáp có 60 đôi Can Chi. Mỗi đôi có một Can đứng trước và một Chi đứng sau. Từ vô thỉ khởi đầu là đôi Giáp Tý, rồi cứ luân chuyển theo thứ tự 10 Can và 12 Chi cho đến hết 60 đôi thì trở lại đôi đầu là Giáp Tý. Tính Tuổi, tính Năm, tính Tháng, tính ngày, tính giờ đều cùng tính luân chuyển như thế cả. Thứ tự 10 Can là: Giáp, ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Thứ tự 12 Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Vậy khởi đầu là Giáp Tý, tiếp theo là ất Sửu rồi Bính Dan…vì^` theo thứ tự hết Giáp tới ất, rồi tới Binh…', hết Tý đến Sửu, tiếp theo là Dan…
Sáu mươi đôi Can Chi vẫn luân chuyển kế tiếp nhau, nhưng vẫn có phân chia 6 Tuần giáp như sau:
- Tuần Giáp Tý: Giáp Tý, ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu.
- Tuần Giáp Tuất: Giáp Tuất, ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tị, Nhâm Ngọ, Quý Mùi.
- Tuần Giáp Thân: Giáp Thân, ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi, Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị.
- Tuần Giáp Ngọ: Giáp Ngọ, ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão.
- Tuần Giáp Thìn: Giáp Thìn, ất Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu.
- Tuần Giáp Dần: Giáp Dần, ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi.
Bài 2: Nạp âm
Nạp là thu lại, nộp lại. Âm là tiếng. Phàm hai vật cạnh nhau, hợp lại với nhau, choảng nhau tất sinh ra một tiếng tuỳ theo tính chất của hai vật ấy. Cũng như vậy, một Can và một Chi hợp lại với nhau tất sinh ra một mệnh và được quy về 5 loại ngũ hành cơ bản là Kim, Mộc Thuỷ, Hoả, Thổ. Như mệnh Mộc, mệnh Kim…Nạp âm là như vậy, do âm mà biết mệnh.
Tiếng có 5 thứ tiếng: Cung, Thương, Dốc, Chuỷ, Vũ cũng như có mệnh Kim, mệnh Mộc, mệnh Hoả, mệnh Thuỷ, mệnh Thổ. Trong 6 Tuần Giáp có 60 đôi Can Chi. Cứ 2 đôi cùng một mệnh, nhưng đôi trước thì thuộc Dương và đôi sau thuộc Âm. Như Giáp Tý và ất Sửu đều thuộc mệnh Kim, nhưng Giáp Tý thuộc Dưaơng kim và ất Sửu thuộc Âm kim.
Phép nạp âm vốn có quy tắc, song ta lập thành như sau đây:
- Giáp Tý, ất Sửu: mệnh Hải trung kim, là loại kim trong biển.
- Bính Dần, Đinh Mão: mệnh Lư trung hoả, là lửa trong lò.
- Mậu Thìn, Kỷ Tị: mệnh Đại lâm mộc, là cây rừng lớn.
- Canh Ngọ, Tân Mùi: mệnh Lộ bàng Thổ, là đất bên đường.
- Nhâm Thân, Quý Dậu: mệnh Kiếm phong kim, là loại kiếm, gươm, đao.
- Giáp Tuất, ất Hợi: mệnh Sơn đầu hoả, là lửa đầu núi.
- Bính Tý, Đinh Sửu: mệnh Giang hạ thuỷ, nước đáy sông.
- Mậu Dần, Kỷ Mão: mệnh Thành đầu thổ, là đất đầu thành.
- Canh Thìn, Tân Tị: mệnh Bạch lạp kim, là kim sáp trắng.
- Nhâm Ngọ, Quý Mùi: mệnh Dương liễu mộc, là cây dương liễu.
- Giáp Thân, ất Dậu: mệnh Truyền trung thuỷ, là nước trong suối.
- Bính Tuất, Đinh Hợi: mệnh ốc thượng thổ, là đất trên nóc nhà.
- Mậu Tý, Kỷ Sửu: mệnh Tích lịch hoả, là lửa sấm sét, chớp nhoáng.
- Canh Dần, Tân Mão: mệnh Tùng bách mộc, là cây tùng cây Bách.
- Nhân Thìn, Quý Tị: mệnh Trường lưu thuỷ, là giòng nước chảy dài.
- Giáp Ngọ, ất Mùi: mệnh Sa trung kim, là loại kim trong cát.
- Bính Thân, Đinh Dậu: mệnh Sơn hạ hoả, là lửa d−ới núi.
- Mậu Tuất, Kỷ Hợi: mệnh Bình địa mộc, là cây ở đất bằng.
- Canh Tý, Tân Sửu: mệnh Bích th−ợng thổ, là đất trên vách.
- Nhâm Dần, Quý Mão: mệnh Kim bạch kim, là vàng trắng, là bạc.
- Giáp Thìn, ất Tị: mệnh Phúc đăng hoả, là lửa lồng đèn.
- Bính Ngọ, Đinh Mùi: mệnh Thiên hà thuỷ, là nước sông Thiên hà, mưa.
- Mậu Thân, Kỷ Dậu: mệnh Đại trạch thổ, là đất nền nhà lớn.
- Canh Tuất, Tân Hợi: mệnh Thoa xuyến kim, là vàng chiếc thoa xuyến.
- Nhâm Tý, Quý Sửu: mệnh Tang giá mộc, là loại cây dâu, cây duối.
- Giáp Dần, ất Mão: mệnh Đại khê thuỷ, là nước khe lớn.
- Bính Thìn, Đinh Tị: mệnh Sa trung thổ, là đất trộn trong cát, đất phù sa.
- Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: mệnh Thiên thượng hoả, là lửa trên trời, nắng.
- Canh Thân, Tân Dậu: mệnh Thạch lựu mộc, là cây thạch lựu.
- Nhâm Tuất, Quý Hợi: mệnh Đại hải thuỷ, là nước biển to.
Bài 3:
Tuần Can
(Tức là phép tính độn Can)
Trong mỗi quẻ đều có 12 Chi thiên bàn là Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi. Tuy không có biến theo những Can Giáp ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý, nhưng vẫn có thể tính ra mà biết được. Muốn tính thì phải biết được tên của ngày hiện đang chiêm quẻ thuộc về Tuần giáp nào? Và cứ dò theo 10 đôi Can Chi của Tuần giáp ấy tất biết mỗi Chi có một Can ở trước, rồi dùng tên Can đó mà đặt ra tên cho Chi ấy, Như Tuần Bính, Tuần Đinh, Tuần Ky…
Thỉ dụ: ngày chiêm quẻ thuộc về một trong 10 ngày của tuần Giáp Tý như ngày ất Sửu, ngày Canh Ngọ, ngày Nhâm Thân chẳng hạn, vậy trong quẻ thấy Tý là tuần Giáp, thấy Sửu là tuần ất, thấy Ngọ là tuần Canh, thấy Thân là tuần Nham…vi` trong 10 đôi Can Chi của tuần Giáp Tý thì trước Tý có Giáp, trước Sửu có ất, trước Ngọ có Canh …Tóm lại gọi là Tuần Giáp vì có Can giáp đứng trước, gọi là Tuần Đinh vì có can Đinh đứng trưoc…+' Tuần Giáp cũng gọi là Tuần thủ vì thủ là đầu mà Giáp thì đứng đầu 10 Can. Tuần Quý cũng gọi là Tuần Vĩ, vì Vĩ là đuôi, bởi Quý là Can đứng cuối cùng, tức như cái đuôi. Trong môn Lục nhâm th−ờng dùng đến những từ ngữ Tuần là để tuân thủ theo quy luật thời gian phối hợp với không gian.
Bài 4: Tuần không
Tuần không là hai Chi không có mặt trong 10 ngày của một Tuần giáp lúc đang chiêm quẻ. Mẫu số chung nhỏ nhất chia hết cho 10 Can và 12 Chi là 60, nên dùng 10 Can và 12 Chi để làm ra 6 tuần Giáp. Sự ảnh hưởng của 10 thiên Can đối với 12 địa Chi, khi cùng ở một thời điềm xuất phát can Giáp và chi Tý, trong chu kỳ 60 ngày của Lục tuần sẽ có 2 Chi là chưa dùng đến, hai Chi này trong Tuần không dùng cho nên gọi là Tuần không.
Ví dụ: Tuần Giáp Tý thì Tuất Hợi là Tuần không, tuần Giáp Tuất thì Thân Dậu là Tuần không.
Tuần không có năng lực làm ra không. Vì vậy khi quẻ xấu hoặc hung thần hay hung tướng mà gặp Tuần không thì tai hoạ không đủ sức hại đến mình. Còn quẻ tốt hoặc cát thần, cát tướng mà gặp Tuần không thì giảm điều may mắn, có khi mất cả tốt mà thành ra xấu.
Phàm hào tượng hoặc thần tướng nào ứng về việc mà mình muốn cầu xem cho được, khi gặp Tuần không thì chắc là bất mãn thôi. Hào tượng hoặc thần tướng nào ứng vào việc xấu mà mình muốn tránh, khi gặp Tuần không thì chắc là khỏi hại. Thí dụ: cầu tài mà thấy hào thê tài gặp Tuần không là cầu không được vậy. Như chiêm bệnh tật, thấy hào Quan quỷ gặp Tuần không là điềm sẽ qua khỏi bệnh, như cầu quan thì uổng công vô ích, hoặc quan nhân hỏi về chức tước là điềm mất ngôi quan. Nhưng nên nhớ: chỗ tốt mà gặp Tuần không là đã mất tốt, song nếu ở Lục xứ, mà quan trọng nhất là ở Bản mệnh hay Can lại có chữ thiên bàn xung khắc chỗ tốt ấy thì sự tốt trở lại có thật.
Trái lại, chỗ xấu mà gặp Tuần không là khỏi bị hại, nhưng nếu ở Lục xứ có chữ thiên bàn nào xung khắc chỗ xấu ấy thì sự tai hại trở lại có thật. (Chỗ tốt gọi là quẻ tốt hoặc hào tượng hay thần tướng ứng điềm tốt. Còn chỗ xấu tức quẻ xấu hoặc hào tượng hay thần tướng ứng điềm xấu, ứng việc mà mình muốn tránh khỏi. Năm Tháng Ngày Giờ xung Tuần không cũng vậy).
Tuần không nói chung là Tuần không thiên bàn (gọi là Không thần) và Tuần không địa bàn (gọi là Không địa). Không thần chỉ có năng lực làm ra không đến 7 phần, còn Không địa thì trọn cả 10 phần. Như thấy Thanh long thừa Không thần mà cầu tài thì còn có chút ít hy vọng, còn thấy lâm Không địa thì ắt không còn hy vọng cầu được tiền tài dù nhiều hay ít. Trong mỗi quẻ luôn luôn phải quan sát đến Tuần không mới có thể tiên lượng được là tốt ít hay tốt nhiều, xấu ít hay xấu nhiều hoặc tuy xấu mà khỏi xấu, hay tuy tốt mà chẳng được tốt.