PHÉP XEM SỐ
Lập thành
1- Thiên can, Địa chi
Giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý đó là 10 thiên can.
Tý, sửu, dần, Mão, thìn, tỵ, ngọ mùi ,thân, dậu, tuất, hợi, đó là 12 địa chi.
2- Can, chi thuộc âm, dương
THIÊN CAN: Giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý thuộc âm.
ĐỊA CHI: Tý, dần, thìn, ngọ, thân tuất thuộc dương; sửu, Mão, tỵ, mùi, dậu, hợi thuộc âm
3- Can, Chi thuộc năm hành và bốn phương, bốn mùa
THIÊN CAN: Giáp, ất thuộc hành mộc, là phương Đông; bính, đinh thuộc hành hoả, là phương Nam; Mậu kỷ thuộc hành thổ, là Trung ương ; canh, tân thuộc hành kim, là phương Tây; nhâm, quý thuộc hành thuý, là phương Bắc.
ĐỊA CHI: Dần, Mão, thìn, thuộc hành mộc, giữ mùa Xuân, là phương Đông; tỵ, ngọ, mùi, thuộc hành hoả, giữ mùa Hạ, là phương Nam; thân, dậu, tuất thuộc hành kim, giữ mùa Thu, là phương Tây; hợi, tý, sửu thuộc hành thuỷ giữ mùa Đông, là phương Bắc. Bốn chi thìn, mùi, tuất, sửu nói về vị đơn thì thuộc hành Thổ, là bốn tháng quý (bốn tháng cuối của bốn mùa, là tháng 3, tháng 6, tháng 12), bống phương duy (bốn phương giáp: Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam).
4- Mười hai tháng dựng Địa chi
Nước Trung Hoa từ đời vua Phụ Hy mới làm lịch, phân vòng trời đất làm 12 phía, lấy 12 địa chi phối với 10 thiên can mà đặt tên phía, định một năm 12 tháng, cứ tlợn cán sao Bắc Đẩu chuyển lần, hễ dựng vào mỗi phía một tháng bắt đầu từ phía Dần như sau.
Tháng giêng dựng phía Dần; tháng hai dựng phía Mão; tháng ba dựng phía Thìn; tháng tư dựng phía Tỵ; tháng năm dựng phía Ngọ; tháng sáu dựng phía Mùi; tháng bảy dựng phía Thân; tháng tám dựng phía Dậu; tháng chín dựng phía Tuất; tháng mười dựng phía Hợi; tháng mười một dựng phía Tý; tháng mười hai dựng phía Sửu.
Còn phối với 10 thiên can thì bắt đầu kể từ tháng Giáp dần, rồi chuyển lần đi tới tháng 11 là Giáp tý, tháng 12 là Ất sửu, qua tháng giêng năm sau là Bính dần ...
Năm thì lấy hai chữ đầu Can, Chi mà đặt khởi từ năm Giáp tý, rồi cũng chuyển lần đi, cứ 10 năm là một giáp, nghĩa là trải suốt 10 can, qua năm 11 là Giáp tuất; trải qua 6 giáp tới năm 60 là Quý hợi, thì qua năm 61 lại là Giáp tý (lịch Trung Hoa và lịch Việt Nam ta ngày nay đều tlợn khoảng ấy).
5- Hai mươi bốn tiết khí
Lịch cổ rằng: Tháng giêng là tiết Lập Xuân, tiết Vũ thuỷ; tháng hai là tiết Kinh trập, tiết Xuân phân; tháng ba là Thanh minh, tiết Cốc vũ; tháng tư là tiết Lập hạ, tiết Tiểu mãn; tháng năm là tiết Mang chủng, tiết Hạ chí; tháng sáu là tiết Tiểu thử, tiết Đại thử; tháng bảy là tiết Lập thu, và tiết Xử thử; tháng tám là tiết Sương giáng; tháng mười là tiết Lập đông và tiết Tiểu tuyết; tháng mười một là tiết Đại tuyết và tiết Đông chí; tháng mười hai là tiết Tiểu hàn và tiết Đại hàn.
Cứ 15 ngày là 1 tiết, từ buổi ban sơ thì như vậy, sau vì tháng nhuận, ngày thiếu mà biến đi, có năm tiết Lập xuân ở trong cuối tháng mười hai năm trước, các tiết cũng dần dần xê dịch, cứ trải qua bốn năm lại hoàn như trước, tiếp Lập xuân năm thứ năm lại ở đầu tháng giêng.
6- Phép tính năm
Phép tính năm thì xem tên Can Chi của năm người ấy sinh ra là gì làm chủ, lấy tiết Lập xuân làm cương (giường), có ba phép phân biệt như sau:
1. Như người sinh tại sau tiết Lập xuân trong tháng giêng năm đó, đều lấy Can Chi của năm đó làm chủ.
2. Như sinh tại trước tiết Lập xuân trong tháng giêng năm đó, đều lấy Can Chi của năm trước làm chủ.
3. Như sinh tại sau tiết Lập xuân trong tháng mười hai năm đó, đều lấy Can Chi của năm sau làm chủ.
Giả tỷ như năm nay là năm Ất Mão, người ấy 49 tuổi, muốn biết năm người ấy sinh ra là can chi, nên dùng phép tiệp kính trên bàn tay suy tính ra, liền tự nhiên xác đáng:
Do năm nay là năm thứ nhất, khởi Ất Mão, đếm ngịch lên, năm thứ 11 khởi Ất tỵ; năm thứ 21 khởi Ất mùi; năm thứ 31 khởi Ất dậu; năm thứ 41 khởi Ất hợi. Do Ất hợi lại lần lượt đếm ngịch lên 8 vị nữa tới 49, liền biết năm thứ 49 là Đinh Mão (năm Đinh Mão).
7- Phép tính tháng
Phép tính tháng thì do năm sinh của người ấy độn ra can chi của tháng làm chủ, lấy tiết lịch làm cương. Có ba cách khu biệt như sau:
1. Như người sinh tại sau tiết lịch tháng đó, lấy ngay can chi của tháng đó độn ra làm chủ.
2. Như người sinh tại trước tiết lịch tháng đó, lấy ngay can chi của tháng trên độn ra làm chủ.
3. Như người sinh tại một tiết lịch dưới trong tháng đó, lấy ngay can chi của tháng dưới độn ra làm chủ.
Sách cổ rằng: Năm Giáp, năm Kỷ thì Bính làm đầu; năm Ất, năm Canh thì Mậu làm trước, năm Bính, năm Tân thì ắt hẳn khởi từ Canh; năm Đinh, năm Nhâm, do vị Nhâm kể thuận; còn năm Mậu, năm quý thì do nơi Giáp dần mà tìm.
Giả tỷ như sinh giờ Tý ngày mùng một tháng giêng năm Đinh Mão, trong lịch chép rõ: Vào giờ Mùi ngày 30 tháng 12 năm Bính dần Lập xuân, thì làm sớm mai ngày mùng một thuộc về tháng giêng năm Đinh Mão rồi. Sách cổ rằng: Năm Đinh do vị nhâm kể thuận đi. Đó là tháng giêng năm Đinh Mão độn được Nhâm dần đó (năm Đinh Mão tháng nhâm dần).
8- Phép tính ngày
Phép tính ngày thì do ngày sinh của người ấy định ra can chi. Xem trong lịch chép: Ngày mùng một tháng mỗ là can chi mỗ, ngày 11 là can chi mỗm ngày 21 là can chi mỗ, thì can chi của mỗi ngày trong tháng có thể bấm đốt tay tính ra được hết.
Giả tỷ sinh giờ Tý ngày mùng một tháng giêng năm Đinh Mão là Bính thìn, thì biết ngay là ngày Bình thìn rồi (năm Đinh Mão, tháng Nhâm dần, ngày Bính thìn).
9- Phép tính giờ
Phép tính giờ thì do ngày sinh của người ấy độn được can chi của giờ sinh làm chủ. Sách cổ rằng: Ngày Giáp, ngày Kỷ lại sinh giờ Giáp; ngày Ất, ngày Canh sinh giờ Mậu tý; ngày Bính, ngày Tân do Mậu khởi lên; ngày Đinh, ngày Nhấmanh tại giờ Canh tý; ngày Mậu, ngày Quý phát tại giờ Nhâm tý là đích.
Giả tỷ như sinh giờ Tý, ngày Bính thìn, tháng Nhâm dần, năm Đinh Mão. Sách cổ rằng: Ngày Bính, ngày Tân do giờ Mậu khởi lên. Đó là do ngày Bính, giờ Tý, độn được mậu tý vậy. Đó là là người ấy sinh giờ Mậu tý, ngày Bính thìn, tháng Nhâm dần, năm Đinh Mão.
24 giờ đồng hồ đọ với 12 giờ địa chi
Phần ngày: 6 giờ sáng (giữa giờ Mão), 7 giờ (cuối Mão, đầu Thìn), 8 giờ (giữa Thìn), 9 giờ (cuối Thìn, đầu Tỵ), 10 giờ (giữa Tỵ), 11 giờ (cuối Tỵ, đầu Ngọ), 12 giờ trưa (giữa Ngọ), 1 giờ chiều (cuối Ngọ, đầu Mùi), 2 giờ (giữa Mùi), 3 giờ (cuối Mùi, đầu Thân), 4 giờ (giữa Thân), 5 giờ (cuối Thân, đầu Dậu).
Phần đêm: 6 giờ tối (giữa Dậu), 7 giờ (cuối Dậu, đầu Tuất), 8 giờ (giữa Tuất), 9 giờ (cuối Tuất, đầu Hợi), 10 giờ (giữa Hợi), 11 giờ (cuối Hợi, đầu Tý), 12 giờ khuy (giữa Tý), 1 giờ mai (cuối Tý, đầu Sửu), 2 giờ ( giữa Sửu), 3 giờ (cuối Sửu, đầu Dần), 4 giờ (giữa Dần), 5 giờ (cuối Dần, đầu Mão).
10- Địa chi sinh tiếu
Người sinh năm Tý giống con chuột, sinh năm Sửu giống con trâu, sinh năm Dần giống con cọp, sinh năm Mão giống con mèo, sinh năm Thìn giống con rồng, sinh năm Tỵ giống con rắn, sinh năm Ngọ giống con ngựa, sinh năm Mùi giống con dê, sinh năm Thân giống con khỉ, sinh năm Dậu giống con gà, sinh năm Tuất giống con chó, sinh năm Hợi giống con lợn.
Mấy phép trên đây là để tìm can chi của năm, tháng, ngày, giờ sinh mà dùng phép (Cân xương tính số) dưới đây.
11- Phép cân xương tính số
Một phép (cân xương tính số)lấy năm, tháng, ngày, giờ sinh của người ấy phối chuẫn với nhau, y số hợp tra, bày ra tám chữ ( can chi hay là số mục của năm, tháng, ngày, giờ), tính cộng số lạng (lạng) chỉ (đồng cân), thành là xương nặng, nhẹ bao nhiêu, rồi tlợn lời đoán lập thành dưới đây mà tính ra vận hay dở một đời, sự thành bại trăm năm.
Số năm
· Giáp tý (1 lạng, 5 chỉ)
· Bính tý (1 lạng, 6 chỉ)
· Mậu tý (1 lạng, 5 chỉ)
· Canh tý (0 lạng, 7 chỉ)
· Nhâm tý (0 lạng, 5 chỉ).
· Ất sửu (0 lạng, 9 chỉ)
· Đinh sửu (0 lạng, 8 chỉ)
· Kỷ sửu (0 lạng, 8 chỉ)
· Tân sửu (0 lạng, 7 chỉ)
· Quý sửu (0 lạng, 5 chỉ)
· Bính dần (0 lạng, 6 chỉ)
· Mậu dần (0 lạng, 8 chỉ)
· Canh dần (0 lạng, 9 chỉ)
· Mậu dần (0 lạng, 8 chỉ)
· Canh dần (0 lạng, 9 chỉ)
· Nhâm dần (0 lạng, 9 chỉ)
· Giáp dần (1 lạng, 2 chỉ).
· Đinh Mão (0 lạng, 7 chỉ)
· Kỷ Mão (1 lạng, 9 chỉ)
· Tân Mão (1 lạng, 2 chỉ)
· Quý Mão (1 lạng, 2 chỉ)
· Ất Mão (0 lạng, 8 chỉ)
· Mậu thìn ( 1 lạng, 2 chỉ)
· Canh thìn (1 lạng, 2 chỉ)
· Nhâm thìn (1 lạng, 0 chỉ)
· Giáp thnf (0 lạng, 8 chỉ)
· Bính thìn (0 lạng, 8 chỉ).
· Kỷ tỵ (0 lạng, 5 chỉ)
· Tân tỵ (0 lạng, 6 chỉ)
· Quý tỵ (0 lạng, 7 chỉ)
· Ất tỵ (0 lạng, 7 chỉ)
· Đinh tỵ (0 lạng, 6 chỉ).
· Canh ngọ (0 lạng, 9 chỉ
· , Nhâm ngọ (0 lương 8 chỉ)
· Giáp ngọ (1 lạng, 5 chỉ)
· Bính ngọ (1 lạng, 3 chỉ)
· Mậu ngọ (1 lạng, 9 chỉ).
· Tân mùi (0 lạng, 8 chỉ)
· Quý mùi (0 lạng, 7 chỉ)
· Ất mùi (0 lạng, 6 chỉ)
· Đinh mùi (0 lạng, 5 chỉ)
· Kỷ mùi (0 lạng, 6 chỉ).
· Nhâm thân (0 lạng, 7 chỉ)
· Giáp thân (0 lạng, 5 chỉ)
· Bính thân (0 lạng, 5 chỉ)
· Mậu thân (1 lạng, 4 chỉ)
· Canh thân (0 lạng, 8 chỉ).
· Quý dậu (0 lạng, 8 chỉ)
· Ất dậu (1 lạng, 5 chỉ)
· Đinh dậu (1 lạng, 4 chỉ)
· Kỷ dậu (0 lạng, 5 chỉ)
· Tân dậu ( 1 lạng, 6 chỉ).
· Giáp tuất (1 lạng, 5 chỉ)
· Bính tuất (0 lạng, 6 chỉ)
· Mậu tuất (1 lạng, 4 chỉ)
· Canh tuất (0 lạng, 9 chỉ)
· Nhâm tuất (1 lạng, 0 chỉ).
· Ất hợi (0 lạng 9 chỉ)
· Đinh hợi (1 lạng 6 chỉ)
· Kỷ hợi (0 lạng 9 chỉ)
· Tân hợi (1 lạng 7 chỉ)
· Quý hợi(0 lạng 7 chỉ)
· Số tháng
· Tháng giêng (6 chỉ)
· Tháng hai (7 chỉ)
· Tháng ba (1 lạng, 8 chỉ)
· Tháng tư (9 chỉ)
· Tháng năm (5 chỉ)
· Tháng sáu (1 lạng, 6 chỉ)
· Tháng bảy (9 chỉ)
· Tháng tám (1 lạng, 5 chỉ)
· Tháng chín (1 lạng, 8 chỉ)
· Tháng mười (8 chỉ)
· Tháng mười một (9 chỉ)
· Tháng mười hai (5 chỉ).
· Còn sinh về tháng nhuận, hễ nửa trên tháng thì tlợn tháng trước, nửa dưới tháng thì tlợn tháng sau.
· Số ngày
· Mùng một (5 chỉ)
· Mùng hai (1 lạng)
· Mùng ba (8 chỉ)
· Mùng bốn (1 lạng, 5 chỉ)
· Mùng năm (1 lạng, 6 chỉ)
· Mùng sáu (1 lạng, 5 chỉ)
· Mùng bảy (8 chỉ)
· Mùng tám (1 lạng, 6 chỉ)
· Mùng chín (8 chỉ)
· Mùng mười (1 lạng, 6 chỉ).
· Mười một (9 chỉ)
· Mười hai (1 lạng, 7 chỉ)
· Mười ba (8 chỉ)
· Mười bốn (1 lạng7 chỉ)
· Mười năm (rằm) (1 lạng)
· Mười sáu (8 chỉ)
· Mười bảy (9 chỉ)
· Mười tám (1 lương, 8 chỉ)
· Mười chín (5 chỉ),
· Hai mươi (1 lạng, 5 chỉ).
· Hai mươi mốt (1 lạng),
· Hai mươi hai (9 chỉ)
· Hai mươi ba (8 chỉ)
· Hai mươi bốn (9 chỉ)
· Hai mươi lăm (1 lạng, 5 chỉ)
· Hai mươi sáu (1 lạng, 8 chỉ)
· Hai mươi bảy (7 chỉ)
· Hai mươi tám (8 chỉ)
· Hai mươi chín (1 lạng, 6 chỉ),
· Ba mươi (6 chỉ).
Số giờ
· Giờ Tý (1 lạng, 6 chỉ)
· Giờ Sửu (6 chỉ)
· Giờ Dần (7 chỉ)
· Giờ Mão (1 lạng)
· Giờ Thìn (9 chỉ)
· Giờ Tỵ (1 lạng, 6 chỉ)
· Giờ Ngọ (1 lạng)
· Giờ Mùi (8 chỉ)
· Giờ Thân (8 chỉ)
· Giờ Dậu (9 chỉ)
· Giờ Tuất (6 chỉ)
· Giờ Hợi (6 chỉ).
Thí dụ phép làm như sau:
Giả tỷ như người xem số sinh năm Giáp Tý là 1 lạng 2 chỉ, tháng giêng là 0 lạng, 6 chỉ, ngày mùng 1 là 0 lạng 5 chỉ, giờ Tý là 1 lạng 6 chỉ rồi toán cộng lại
Cộng
1 lạng, 2 chỉ
0 lạng, 6 chỉ
0 lạng, 5 chỉ
1 lạng, 6 chỉ
3 lạng, 9 chỉ
|
Tìm lời tổng đoán lập thành dưới đây, đâu là bản số 3 lạng, 9 chỉ mà xem, thì vận mệnh một đời thành hay bại, tốt hay là xấu thể nào sẽ hiểu ngay
|
LỜI TỔNG ĐOÁN
I- 2 lạng, 2 chỉ
Người này thân hàn cốt lạnh, khổ đỗi lênh đênh, suy ra là số ăn mày, vất vả long đong, không rồi độ nhật, quanh năm chỉ lo tìm miếng nuôi Miệng cho được qua ngày mà thôi.
II- 2 lạng, 3 chỉ
Số này suy ra xương nhẹ lắm, cầu mưu làm việc gì cũng khó nên vợ con anh em chẳng trông cậy nơi đau cho được, đành chịu làm người lưu lạc tại biệt xứ tha phương.
III- 2 lạng, 4 chỉ
Số này suy ra không có phúc lộc, gia đình khốn khổ, khó phần dựng nên được, họ hàng cốt nhục đều không có chỗ nương cậy chỉ lưu lạc tha phương cho tới già mà thôi.
IV- 2 lạng, 5 chỉ
Xem số này tổ nghiệp suy vi, ít có phàn gầy dựng nên gia đình được; họ hàng cốt nhục thì chếch mác dường như than với giá (than thì nóng, giá thì lạnh, không hoà hợp với nhau) một đời khó nhọc, chỉ tự mình cầm giữ lấy mình mà thôi.
V- 2 lạng, 6 chỉ
Số này trót dời khốn khổ về sự cầu no ấm, mọt mình mưu tính công việc hoài mà cũng chẳng rồi. Phải nên sớm lìa xa quê cha đất tổ ra ngoài mà tìm kế sinh nhai thì may ra lúc già được khỏi lo về sự ăn mặc.
VI- 2 lạng, 7 chỉ
Số này một đời làm công việc ít có kẻ thương lạng mưu toan với, mà cũng khó nhờ cậy phúc đức của tổ tông làm chỗ dựa cho. Chỉ độc lực một thân một mình lủi thủi mà làm, từ lúc nhỏ cho chí lúc già, rốt cuộc chẳng có cái gì là hay là giỏi.
VII- 2 lạng, 8 chỉ
Số này một đời làm vịêc lộn xộn rối bời như mớ bòng bong, trông về sản nghiệp của tổ tông thì dường như mơ màng ở trong giấc mộng. Nếu chẳng làm con nuôi người ta hay là đổi họ thì cũng phải dời đổi chỗ ở tới hai ba lần.
VIII - 2 lạng, 9 chỉ
Số này lúc nẵmưa thì luẫn quẫn, chưa hề được hanh thông, dầu có công danh thì cũng muộn muộn, phải tới ngoài bốn mươi tuổi mới có thể bước lên được, mà phải dời nhà, đổi họ thì mới hay.
IX- 3 lạng
Số này lao lực phong trần, tìm cách sinh nhai tại trong nơi khổ nạn ! Đông tây chạy vẫy, biết bao giờ cho thôi. Dầu có siêng năng hà tiện cả đời, thì tới tuổi già cũng chỉ gọi là đỡ ưu sầu được một ít.
X- 3 lạng, 1 chỉ
Số này cũng vất vả lật đật về đường sinh kế, dường như bị đám mây che lấp, trông bao giờ được thấy mặt trời ! Khó nhờ cơ nghiệp của tổ tông mà dựng được nên cửa nên nhà, từ nửa đời trở đi thì gọi là được đủ ăn đủ mặc.
XI- 3 lạng, 2 chỉ
Số này khoảng năm xưa thì gặp những vận rủi, khó phần mưu được công việc gì; rồi sau này mới có tài lợi như nguồn nước dần dần chảy tới, từ khoảng nửa đời trở đi thì sự ăn mặc được no đủ, lúc đó công danh lợi lộc sẽ đều đem lại nhất tề.
XII- 3 lạng, 3 chỉ
Số này khoảng ban sơ làm công việc gì cũng khó được thành, mưu tính trăm đường cũng chỉ uổng công nhọc sức mà thôi. Từ nửa đời trở đi thì vận hay sẽ tới như dòng nước chảy lại, sau này tài lợi tiến phát được nhiều.
XIII- 3 lạng, 4 chỉ
Số này có phúc khí tăng đạo, phải lìa xa quê cha đất tổ, mà xuất gia nương nhờ cửa Không, hằng ngày niệm Phật tụng kinh, thì mới được y lộc viên mãn.
XIV- 3 lạng, 5 chỉ
Số này phúc lạng sinh bình chẳng được châu toàn, căn cơ của tổ nghiệp ít có phần truyền lại, mà đều mưu sự sinh nhai thì phải nên thủ cựu, chờ khi vận tới rồi ăn mặc sẽ được no đủ hơn xưa.
XV- 3 lạng, 6 chỉ
Số này một đời chẳng cần phải lao lực gì cho lắm, một tay mình gầy dựng nên gia nghiệp, cái phúc chẳng phải vừa, vì sớm có ngôi phúc tinh thường khi chiếu tới mệnh mình, mặc dầu cho làm qua, trăm bề đều thành đạt.
XVI- 3 lạng, 7 chỉ
Số này làm chẳng thành được công việc gì, anh em ít có sức giúp vì chỉ một thân cô lập. Tuy rằng cũng có tổ nghiệp chút đỉnh, nhưng lúc lại thì rành rành ở đó, mà lúc đi thì chẳng biết hết bao giờ.
XVII- 3 lạng, 8 chỉ
Số này một mình cốt cách rất thanh cao, sớm được vào chốn công môn, thi đỗ, họ tên đề tại bảng vàng. Chờ xem sắp tới năm 36 tuổi, sẽ cởi bỏ áo xanh mà vận đổi áo hồng (nghĩa là đổi thân hàn vi làm thân phú quí).
XVIII- 3 lạng, 9 chỉ
Số này cả đời vận mệnh chẳng được thông đạt, làm việc khó nhọc rồi cũng thành không hết. Khổ tâm kiệt lực dựng nên gia kế tới sau này hướng lại như ở trong giấc chiêm bao.
XIX - 4 lạng
Số này phúc lộc bình sinh được lâu dài, các cái đều chủ trương tự trong bụng, khoảng trước đã chịu qua nhiều đỗi phong sương vất vả, này chắc hẳn được hưởng phúc yên khang.
XX- 4 lạng, 1 chỉ
Số này là người tài cán khác với người thường, công việc trước sau chẳng đồng nhau: từ khoảng nửa đời trở tới lại có phúc tiêu diêu, chứ chẳng như năm xưa vận chưa đạt.
XXI- 4 lạng, 2 chỉ
Số này sẽ được nơi hả dạ, thì hãy khoan lòng ân hận, cần chỉ phải nhăn mặt châu mày. Nếu tới năm nửa đời vận mệnh được nên, lúc đó tài lợi công danh cả đều tiến phát.
XXII- 4 lạng, 3 chỉ
Số này là người tâm tính rất thông minh, làm việc lội lạc hiên ngang gần với người sang quý. Một đời phúc lộc tự số trời định sẵn, chẳng cần lao lực, mà tự nhiên được phong hậu hanh thông.
XXIII- 4 lạng, 4 chỉ
Phàm sự gì cũng bởi trời đem lại, chẳng cần cầu làm gì cho nhọc lòng, phải biết rằng phúc lộc sau này sẽ hơn bước trước. Tuy rằng lúc này cung tài bạch khó được như ý, nhưng tới khoảng tuổi già chắc được vui vẻ không phải lo.
XXIV- 4 lạng, 5 chỉ
Số này tính về phần công danh lợi lộc, thì bước trước tân khổ, mà đường sau cũng phải bôn ba. Số hiếm hoi trai gái khó nuôi, mà anh em cốt nhục cũng ít có kẻ phù trì bênh vực.
XXV- 4 lạng, 6 chỉ
Số này đi đâu cũng đều được hanh thông, nhất là đổi họ dời nhà lại càng thấy thạch vượng. Ăn mặc không thiếu, tự số trời định sẵn, từ nửa đời cho chí tuổi già đồng một mực đều đều.
XXVI- 4 lạng, 7 chỉ
Số này tính ra vượng về lúc tuổi già, vợ vinh, con quý, mình được vui vẻ. Vì bình sinh nguyên có cái phúc ròng ròng, nên chi được có nguồn của như nước chảy lại.
XXVII- 4 lạng, 8 chỉ
Số này lúc tuổi nhỏ đường vận mệnh chưa hề được hanh thông, dần dần cho tới lúc lớn cũng chẳng thấy hưng vượng. Anh em họ hàng đều không được nhờ cậy sự nghiệp một đời mãi tới khoảng tuổi già mới thành cho.
XXVIII- 4 lạng, 9 chỉ
Số này tính ra có hậu phúc lắm, tự tay mình gầy dựng nên sự nghiệp, làm quang hiển cho gia đình. Bao nhiêu người phú quí đều phải kính trượng mình, một đời đủ có tôi mọi sau khiến.
XXIX- 5 lạng
Số này suốt ngày chỉ lao lực về đường công danh tài lợi, khoảng nửa chừng cũng có nhiều phen gặp phúc lộc; tới lúc già có ngôi tài tinh chiếu mệnh, chứ chẳng như khoảng trước trông mỏi Mắt chẳng xong.
XXX- 5 lạng, 1 chỉ
Số này một đời vinh hoa, mọi việc cả đều tiến phát, chẳng cần phải lao lực, tự nhiên hanh thông. Anh em chú cháu đều được như ý, lúc nghiệp nàh nên, phúc lộc được dầy.
XXXI- 5 lạng, 2 chỉ
Số này một đời hanh thông, việc gì cũng hay, chẳng cần nhọc lòng nghĩ mà tự nhiên yên ổn. Họ hàng vui vẻ và có lòng tốt hết cả, nghiệp nhà thành đạt, mình được xứng lòng.
XXXII- 5 lạng, 3 chỉ
Số này xem ra khí lạng chân thật, nghiệp nhà mà phát đạt là cũng ở trong đó. Phúc lộc một đời có số định sẵn, thành là một ông nhà giàu ở nhân gian.
XXXII- 5 lạng, 4 chỉ
Số này xem ra tính người trung hậu và thanh cao, học hành thông thái, trông ngày thành công, ăn mặc phong túc, tự nhiên yên ổn, chính là người có phúc ở đời.
XXXIV- 5 lạng, 5 chỉ
Số này lúc tuổi nhỏ những chạy chọt trên con đường danh lợi, làm việc gì cũng chỉ uổng công nhọc sức mà thôi. Một ngày kia phúc lộc đem lại ròng ròng, phú quí vinh hoa, quang hiển cửa nhà họ mạc.
XXXV- 5 lạng, 6 chỉ
Số này suy ra là người lễ nghĩa thông thái, một thân phúc lộc, thọ dụng vào cùng, nếu trải đủ mùi ngọt nhạt chua cay, nguồn của đem lại cuồn cuộn, yên ổn và phong hậu.
XXXVI- 5 lạng, 7 chỉ
Số này phúc lộc dẫy đầy, muôn sự trọn vẹn, một mình vinh diệu, quang hiển mẹ cha, oai vọng chấn dương, người đều kỉnh trượng, tiêu diêu cõi tục, riêng chiếm bầu xuân.
XXXVII - 5 lạng, 8 chỉ
Số này là số băng vàng áo gấm, quan cả khoa cao, phúc lộc một đời, tự nhiên đem lại, phú thọ đều đủ, danh lợi kiêm toàn.
XXXVIII- 5 lạng, 9 chỉ
Suy ra số này là người diệu xảo không có thanh cốt, chắc hẳn tài cao học rộng, có phận đỗ khoa bảng, có mệnh làm quan sang.
XXXIX- 6 lạng
Số này tên đỗ bảng vàng, lập nên công lớn, quang vinh tông tổ, dương hiển mẹ cha, điền sản phong doanh, y lộc thừa dụ.
XL - 6 lạng, 1 chỉ
Số này tư chất thông minh, học hỏi rộng khắp tự nhiên vinh diệu, tên đỗ bảng vàng. Dầu chẳng làm quan sang, chắc cũng là một nhà giàu lớn.
XLI- 6 lạng, 2 chỉ
Số này phúc lộc vào cùng, học giỏi làm nên, ắt hẳng quang hiển ông bà cha mẹ; đai vàng áo gấm, ngôi ở công khanh, phú quí vinh hoa, mọi đường đều đủ.
XLII- 6 lạng, 3 chỉ
Số này là số đỗ khoa cao, làm quan lớn, giàu sang cực phẩm, thiên hạ biết tên; phúc lộc phi thường, gia đình quang hiển.
XLIII- 6 lạng, 4 chỉ
Số này phú quí vinh hoa, ít ai bì kịp, oai quyền lộc vị không kẻ sánh cùng ! Áo tía đai vàng, ngôi cao chung đỉnh; chất vàng chứa ngọc, nhà đủ kho tàng.
XLIV- 6 lạng, 5 chỉ
Số này suy ra phúc lộc chẳng nhỏ: tài cao giúp nước công cả yên dân, chức trọng triều đình, giàu sang cực phẩm: tiếng vang thiên hạ, oai đước phi thường !
XLV- 6 lạng, 6 chỉ
Số này phú quí định sẵn tự trời, phúc lộc bậc nhất thiên hạ, thắt đai cầm hốt, chầu chực quân vương; chứa ngọc chất vàng, ấm phong thê tử.
XLVI- 6 lạng, 7 chỉ
Số này sinh ra tự có phúc lớn, điền viên gia nghiệp rất là hưng long, một đời phú quí vinh hoa, muôn việc hanh thông hoàn hảo.
XLVII- 6 lạng, 8 chỉ
Số này giàu sang do tự trời cho, không phải cần khó nhọc, gia tư kể có muôn vàng, chẳng cần mưu tính. Nhưng mười năm sau chẳng còn như việc khoảng trước: căn cơ của tổ nghiệp trôi đi như thuyền đi trên mặt nước.
XLVIII- 6 lạng, 9 chỉ
Số này là vì sao y lộc ở nhân gian, một thân phú quí, mọi người đều phải sợ. Tóm lại là phúc lộc do tự trời định, yên hưởng vinh hoa được trọn một đời.
XLIX- 7 lạng
Số này suy ra phúc chẳng nhỏ, không cần phải sầu lự làm gì cho nhọc lòng, vì trời định sẵn có y lộc phong doanh, chủ một đời vinh hoa phú quí.
L- 7 lạng, 1 chỉ
Số này sinh ra rất khác với người thường: công hầu khanh tướng ở cả trong đó, một đời tự nhiên có phúc tiêu diêu khoái lạc, vinh hoa phú quí, cực phẩm hưng long !!!
12- Phép đo tay tính số
Tay là cái đồ dùng để cầm giữ làm lụng; là cái tình muốn để lấy bỏ buông bắt. Cho nên người tay nhỏ và dài thì tính như nhân từ mà hay làm ơn cho người ta, tay dày và ngắn thì tính tham bỉ mà hay lấy của người ta; tay buông quá gối là người anh hiền ở thế gian; tay chẳng quá lưng là người bần tiện trót một đời; mình nhỏ mà tay lớn là người phúc lộc; mình lớn mà tay nhỏ là người thanh bần; tay mỏng gầy là người nghèo khổ, ngón ngắn mà rời rạc là người khí tượng ngu hèn; ngón mềm mà mau xít là người có của súc tích; ngón xứng mà thưa là người phá hại gia sản; ngón như búp măng non là người sinh quí thanh cao; ngón như cái dùi vỡ là người ngu si ngoan ngạnh; ngón giống củ hành chẻ là người hưởng lộc; ngón thô như đốt tre là người nghèo hèn; tay mỏng và cứng như chân gà là người không trí khôn mà nghèo; tay cứng ngắc như móng lợn là người ngu lỗ mà hèn; tay nhuyễn như túi bông là người rất giàu; da tay liền như chân ngỗng là người rất sang; bàn tay dài mà xương dày là người sang; bàn tay ngắn mà xương mỏng là người hèn; bàn tay cứng mà tròn là người ngu; bàn tay nhuyễn mà vuông là người giàu.
Thư rằng: Người sang mười ngón nhuyễn như bông
Chẳng những thanh nhàn lại phúc chồng
Thô trược chắc không là tướng tốt,
Chẳng ngu si cũng kẻ tàn hung.
THƯ ĐOÁN VÀ LỜI GIẢI
I- 1 thước, 1 tấc
Thư đoán:
Suy ra số thước mốt đây
Đổi nhà lập cửa sau này mới thông
Anh em ai kẻ cậy trông
Cửa nhà gầy dựng chỉ trong tay mình
Vận xưa tân khổ đã đành
Chẳng lành tổ nghiệp, linh linh đã thường
Nghề tay vì có sở trường
Tự nhiên nhành hạnh qua tường mà ra.
Lời giải: Số này là người bẩm tính ôn nhu, cầm lòng lương thiện, làm việc hoà bình, siêng năng việc nhà. Chỉ hiềm họ hàng anh em không có nơi nương cậy. Song sẽ có quí nhân giúp sức, tập được nghề hay để tính cách sinh nhai, tự nhiên của tiêu chẳng thiếu. Buổi ban sơ vận mệnh lao lực long đong, tới năm 23 tuổi cũng chưa toại ý, sát thương tiểu khâu, khí hãm nhiều bề. Khoảng 28, 29 tuổi vận tới; khoảng 33, 34 tuổi có tai tinh (sao xấu làm hại), hễ gặp sự hiếu, hỷ thì có thể miễn được. Khoảng 37, 38 tuổi vận bình thường; qua ngoại 40 tuổi trở đi mới xứng tâm (vừa lòng). Ngoại 50 tuổi mới được yên ổn cho tới già. Về cung Thê (vợ) có kém 8, 9 tuổi mới khỏi sát; có con sớm khó nuôi, hoạ may con thật (con đẻ) hay là con giả (con nuôi hay là cháu thừa tự) chỉ có một người tống chung (đưa lúc thác). Thọ được 58 tuổi, có qua một hạn thì có thể sống được 66 tuổi. Thác về khoảng tháng tư.
II- 1 thước, 1 tấc, 1 phân
Thư đoán:
Sầu qua mới được vận hanh
Anh xem khôn cậy, tự mình làm nên
Phượng thờ cửa quí có duyên
Lợi danh được chút hão huyền mà thôi
Trong lồng phiền não khó nguôi
Một mai vinh hiển phúc trời tự nhiên
Muốn cho hưởng phúc bình yên
Vận sau chắc phải đổi duyên sắt cầm.
Lời giải: Số này tính người cương trực, có sự gì chẳng giấu, thấy người lành chẳng khi, thấy người dữ chẳng sợ, lập tính cương cường, nhọc lòng uổng sức, lộn xộn nhiều bề, tấm thân và chân tay đều chẳng được nhàn. Ra ngoài có thể được nhờ sức quí nhân phù trợ, nên tập nghề thuật được tính kế sinh nhai, tự nhiên có phần tài lợi. Khoảng năm xưa của lại, của cha, danh huyền, lợi hão; khi hoan hỷ, khi náo nhiệt, cũng như hình trò đùa mà thôi, đó là cách số vợ muộn, con muộn phá tổ, ly gia, anh em họ thân toàn không nhờ cậy, mà anh em họ khác thì lại hoà với nhau. Vận giữa dần dần phát tài, chỉnh lại được cơ nghiệp gia đình. Vận cuối bình thường, có thể rồi được qua. Cung Thê thiếp (vợ) có khắc, những tuổi rồng, cọp, ngựa, trâu mới phối được (nghĩa là Sửu, Dần, Thìn, Ngọ). Cung Tử tức (con) thì những tuổi rồng, rắn, khỏ, chuột mới nuôi được (nghĩa là Thìn, Tỵ, Thân, Tý). Có một con tống chung, một con đắc lực. Thọ được 63 tuổi, thác về trong tháng mười.
III- 1 thước, 1 tấc, 2 phân
Thư đoán:
Ân cần khí Sắc hoà bình
Nghiệp nhà toàn bởi tay mình làm nên
Sinh thành cốt cách lâu bền
Gia đình vinh diệu tự nhiên lập thành
Năm xưa vận mệnh dẫu lành
Chẳng bằng vận giữa tròn vành mấy phân
Cảnh già lộc vẫn còn xuân
Quả nhiên hoa giáp mười phần thọ khang.
Lời giải: Số này là người tâm linh trí xảo tính nóng không lay chuyển nét mặt nhu mì, cầm lòng từ thiện giao kết với bậu bạn thì khẳng khái có vẻ xuân phong; bụng dạ rộng rãi, biết đường khinh trọng, sự dữ chẳng làm, lòng thẳng ít thâm độc; trị việc nhà thì siêng năng, làm nên một đời ăn mặc không thiếu. Ngày thường không có nạn lớn nguy hiểm; ít được nhờ tổ nghiệp, ít được nhờ họ hàng, cốt cách một đời sinh thành được no ăn đủ mặc, có phận lợi danh, có cách ly tỗ. Hạn trước danh huyền lợi hão; Hạn giữa vận tới, dần dần hanh thông; Vận cuối tự nhiên yên hưởng phúc lộc, trong nhà của cải phong doanh. Cung Thê nếu muốn chẳng khắc thương, thì đừng cưới vợ tạp nhạp, nhiều mối nhân duyên làm gì; Dầu có ba con, nhưng có một con tống lão. Thọ được 60 tuổi, nếu qua hạn ấy thì được một kỷ 12 năm nữa là 72 tuổi, thác vào trong tháng tám.
IV- 1 thước, 1 tấc, 3 phân
Thư đoán:
Số này là cốt thu phong
Gian nan trước phá, sau hòng mới nên
Nhờ về nghệ thuật tinh chuyên
Ra ngoài doanh nghiệp, tự nhiên trời đền
Nhện kia kết lưới cho bền
Dẫu rằng mưa gió chẳng nên ngã lòng
Đã từng tân khổ mấy vòng
Bĩ rồi có thái, cũng trong chuyển vần.
Lời giải: Số này là người tâm tư bất định, làm việc không so sánh tính toán, có thuỷ, không chung, nhọc lòng uổng sức, lao lực cũng đều thành không. Đối với tổ nghiệp thì ít có phần được nhờ, chỉ như vẽ cái bánh cho đỡ đói, trông trái mơ cho khỏi khát mà thôi (nghĩa là chỉ được nhờ tiếng nhờ bóng). Số phải đi kinh dinh nghề nghiệp làm ăn tại phương ngoài. Hạn giữa lộn xộn, chẳng được tụ của, khoảng đêm tính ra, sớm mơi lại đi đâu mất, hằng ngày nhọc lòng, cũng đều vào ích. Giao tới khoảng 49 tuổi có một vận khuyết, thẳng tới năm 55 tuổi mới được yên khang. Hạn cuối giao tới vận Mộ khố. Cung Thê phải kết lại duyên sau mới không sát nhau, thay đổi môn đình rồi gia đạo sẽ được hưng long. Con thật và con giả cố hai người tống lão. Thọ được 78 tuổi, thác về trong tháng chạp (tháng 12).
V- 1 thước, 1 tấc, 4 phân
Thư đoán:
Số này đủ mặc, đủ ăn
Đối cùng tổ nghiệp là phần chẳng hay
Có tài, có đức trong tay
Xưa kia thất bại, sau này thịnh xương
Thầy tăng, thầy đạo một đường
Nửa cân, tám lạng hai đường như nhau
Nhân duyên kết chỉ gieo cầu
Hai lần phối hợp, trở đầu cả hai.
Lời giải: Số này là người cảnh trực, làm việc thông minh, tính ngay thẳng, ít thâm độc, chẳng chịu thua kém. Có nghĩa khí, nhưng tâm thần bất định, dễ thành mừng, giận, hễ kẻ thuận thì nở mặt nở mày, vui cười ha hả, nếu kẻ nghịch thì trở ra giận dữ, nổi trận lôi đình tức thì. Cốt nhục vào duyên, họ hàng ít sức, không được nhờ tổ nghiệp, anh em cũng thiếu tình, hai bàn tay trắng tự lực mình gầy dựng nên cửa nên nhà. Hạn trước lao lực bôn ba, vấp ngã phá của, phải ly biệt quê cha đất tổ, tha phương cầu thực, mới lập được gia nghiệp, mà phải thay đổi môn đình. Hạn giữa cũng chưa được như ý. Hạn cuối mới xứng lòng. Cung Thê thiếp phải thay đổi và lìa nhau, mới không khắc sát; đường Tử tức dẫu có, nhưng chẳng được đắc lực, con thật, con giả, chỉ gọi là có người tống lão mà thôi. Thọ được 77 tuổi. Thác vào trong tháng mười.
VI- 1 thước, 1 tấc, 5 phân
Thư đoán:
Số này ắt chủ phân trương
Về phần tổ nghiệp khó đường cậy trông
Hạn xưa vất vả long đong
Tới khoảng vận cuối mới hòng thịnh xương
Một đời lao lực lo lường
Họ hàng cốt nhục chia đường Đông, Tây
Dấu nên gia nghiệp dường này
Nhờ trời sung sướng khác ngày tuổi thư.
Lời giải: Số này là người bản tính cương trực, làm việc công bằng, có tài cơ biến, chẳng được nghĩ ngơi. Họ hàng anh em chẳng đắc lực, tổ nghiệp khó được nhờ, hai bàn tay trắng làm nên gia kế. Vận đầu tiên chưa thuận, lộn xộn nhiều bề, chẳng được tụ của, khéo hai tay tìm tiền mãi, mà không có túi đựng tiền, là cung số con nhện kết lưới; sớm tròn, tối lại chẳng tròn, mấy phen thất bại rồi lại mấy phen thay đổi, chỉ trông ngày yên ổn thành gia nghiệp, ai hay lại bị cơn gió cuồng đánh vỡ.Hạn xưa 23, 24 năm còn như mặt trăng sáng bị đám mây che lấp; sau ngoài 30 tuổi giao tới 40 tuổi thì khéo tơ con thỏ ngọc lại mọc lên phía Đông, giao suốt tới vận cuối mới gặp được quí nhân phù trợ, dần dần vinh thịnh hơn tổ tông. Thê cung thì cưới vợ kế mới được giai lão. Tử tức có hai người tống chung. Thọ được 57 tuổi, qua hạn ấy thì sống được 68 tuổi, thác về mùa thu.
VII- 1 thước, 1 tấc, 6 phân
Thư đoán:
Số này khôn cậy mẹ cha
Doanh cầu buôn bán lại qua cõi trần
Tha hương thân lập lấy thân
Đặng người kỉnh trọng xa gần tiếng nghe
Lộc cao như núi bề bề
Cơ quan khôn khéo chẳng hề ai hay
Của qua, của lại vận này
Vận vinh hoa tới, có ngày tiến mau.
Lời giải: Số này là người cơ linh tâm xảo, lòng bụng thông đạt, chí khí cao cường. Tuổi nhỏ siêng học, có các xảo danh như lúc thanh niên không lợi. Trong bụng so tính nhiều bề, có lễ nghĩa, có tài năng; trị việc nhà cần kiệm lập nghiệp, kinh dinh một đời, phúc lộc không thiếu; Số khắc phụ, cho nên làm việc với cha thì lại hoá ra không tốt, chỉ là họ hàng cốt nhục vào duyên; giao kết với bậu bạn bốn biển thì hoà nhã có vẻ xuân phong. Hạn giữa vẻ vang cửa nhà, thấy người thiện chẳng khi, thấy người ác chẳng sợ, sự có thuỷ chung, lạng hay quảng đại, nghĩa lợi phân minh, người tốt trời giúp, bốn biển dương dang; Hạn cuối thành gia lập nghiệp, yên ổn tới già, cửa cao nhà rộng. Cung Thê thìi vợ chồng nghịch nhau, nhưng không sát; Tử tức ba người, chỉ có một con tống chung. Thọ được 77 tuổi, thác về mùa xuân.
VIII- 1 thước, 1 tấc, 7 phân
Thư đoán:
Số này cốt tướng ít trường
Lìa nhà ra lập điền trang nơi ngoài
Nếu làm tăng đạo thì hay
Lập nên gia đạo sau này mới xưng (thịnh)
Thê cung chẳng hợp âm dương
Sánh đôi tuổi nhỏ sát thương đáo đầu
Tuổi thừa tám mươi về sau
Tống chung chỉ có một đầu con nuôi.
Lời giải: Số này là người tính nóng, lòng thẳng, Miệng lanh, có việc chẳng giấu, thấy người thiện chẳng khi, thấy người ác chẳng sợ, việc có thuỷ chung, tính hay khoan đại. Chỉ vì không được tụ của, tổ nghiệp phải thay đổi, anh em họ hàng không có sức giúp vì. Tự lập gia kế, xuất ngoại mới tốt. Hạn trước khoảng 22 - 23 cho chí 25 - 26 tuổi luôn năm chẳng toại chí, khoảng 27 - 28 - 29 tuổi vận tốt trở tới, dường như cây khô gặp xuân. Hạn giữa năm 49 tuổi có một sự hiểm trở, ngoại năm 50 tuổi như tấm tướng cũ lau đi, mặt trăng sáng lại tròn; khoảng 56 đến 57-58-59 tuổi như trăng sáng lại bị đám mây che lấp; khoảng 66 giao tới 70 tuổi mới tới đại vận. Cung Thê giữ gia tài sánh đôi tử thuở nhỏ còn e khắc sát. Cung Tử tức chỉ có một con giả tống lão. Thọ được 87 tuổi mới chung.
IX- 1 thước, 1 tấc, 8 phân
Thư đoán:
Tha hương thân lập lấy thân
Tổ tông sản nghiệp khó phần cậy trông
Vợ chồng sắt đá tâm đồng
Anh em phận này khó hòng giúp nhau
Lao tâm phí lực bấy lâu
Thành công còn đợi ngày sau vận hồng
Ra ngoài có phận tao phùng
Có phen đổi chác mới xong môn đình.
Lời giải: Số này là người tính lớn, khí cao, có Miệng, không lòng (có lòng nào thì nói ra Miệng hết). Tổ nghiệp ít giữ được, phải ly biệt tha hương thì trăm sự mới nên. Họ hàng cốt nhục đều chẳng đắc lực, tự mình lập thành gia nghiệp. Nên ra ngoài làm con quá phòng người ta, hay là ở rể nhà vợ, học tập nghề tay làm kế sinh nhai, có cách tứ phương dương danh, thường thu của ngoại phương, ăn mặc được phong hậu. Hạn trước bôn ba lộn xộn, chẳng tụ được của; giao qua năm 38, 39 tuổi mới được thành gia; 45, 46 tuổi mới được thuận ý. Vận cuối còn được thịnh vượng dường như cây dương liễu ba xuân, liền nhành lá tốt; như cây yêu đào cảnh muộn, khắp xứ hoa hồng. Cung Thê thiếp hai bên đồng xứng, không sát nhau; Tử tức gọi là có con thật, con giả tống lão mà thôi. Thọ được 47 tuổi, qua hạn đó thì được 66 tuổi. Thác vào trong tháng chín.
X- 1 lạng, 1 tấc, 9 phân
Thư đoán:
Số này thân thích phân trương
Anh em như thể Sâm Thương chẳng hoà
Vợ chồng trong đạo thất gia
Một đời lao lực việc nhà thừa đương
Năm xưa tân khổ đã thường
Tới vòng bốn chín, trời thương mới thành
Hai trai, một gái thân sinh
Một con mắc tật chẳng lành mới xong.
Lời giải: Số này là người làm việc giữ gìn, cùng người ra sức lại hoá không thành. Ly tổ thành gia, ba lượt bốn lần, tự thành tự lập, phí hết tâm cơ. Anh em họ hàng như gió với than, ở nhà chẳng được yên ổn, phải đi ở rể nhà vợ. Hạn trước lộn xộn nhiều tai nạn, bôn ba lao lực, chẳng được tụ tài, thường thường ưu sầu, chẳng được hả dạ; số trời đã định sẵn, tội gì mà tân khổ cho uổng công, nếu muốn yên hưởng phúc, thì thẳng tới năm 36 cho chí năm 41 tuổi, của chẳng mưu mà tự nhiên đến, phúc chẳng cầu mà tự nhiên được. Có quí nhân trợ lực, gia đình được yên tịnh. Cung Thê nếu muốn không sát, thì đừng kết duyên với tuổi Thân, Hợi, Tỵ, Mùi; phải những tuổi Sửu, Dần, Thìn, Ngọ mới hợp. Tuy có hai trai, một gái, nhưng phải có một người đới tật ngầm mới xong. Thọ được 78 tuổi, thác vào trong tháng ba.
XI- 1 thước, 2 tấc
Thư đoán:
Tâm thân đều chẳng được nhàn
Vận trong hai hạn gian nan đã nhiều
Vận hanh thì ở hạn sau
Tự nhiên phúc lộc tlợn nhau tới lần
Thê cung phải đổi hai lần
Ngựa, trâu, long, hổ kết thân mới lành
Tổng chung chỉ một con sinh
Tuổi trời tám mươi thân linh từ trần.
Lời giải: Số này là người bạo táo cương cường, bình sinh chẳng chịu thua kém, gọi là người lạng lớn mà nhiều nghệ nhiều tài, người hảo nhân thì kỉnh trượng mình, kẻ tiểu nhân thì chẳng vừa lòng. Tổ nghiệp như than tan giá, cốt nhục như gió cản mây (nghĩa là khắc kỵ nhau), anh em chỉ như vẽ cái bánh đở đói, thân thích chỉ như trông trái mơ khỏi khát (nghĩa là có tiếng mà thôi). Lao tâm thấy sớm, phát phúc thấy chầy, là số độc lập thành gia, tấn được của bốn phương, ra ngoài gặp quí nhân giúp sức, có thể tập nghệ thuật tính đường sinh nhau, mới hưng nghiệp thành gia được. Chỉ vì sớm chẳng tụ tài, gặp kẻ hung làm lộn xộn, giao quá ngoài 20 tuổi mới đắc ý hả lòng. Khoảng vận giữa lại có tật nhỏ làm ngang, thẳng giao vận cuối mới được yên ổn, ngồi hưởng phúc lành. Cung Thê phải cưới lại lần sau về những tuổi Sửu, Mùi, Dần, Thìn, thì có thể được hai con tông lão, chẳng vậy thì chỉ có một mà thôi. Thọ được 80 tuổi, vào bệnh mà thác tại trong tháng ba.
XII- 1 thước, 2 tấc, 1 phân
Thư đoán:
Hoa mai sớm dược khí xuân
Chi bằng tháng Tý dương dần dần sinh
Hoặc Dần, Thìn, Tỵ vận hanh
Số trời sẽ dẫn phúc lành lại cho
Những là lui tới quanh co
Sau mừng bởi có trước lo mới thành
Tấc lòng thấu đến thần minh
Bóng trăng soi khắp, lợi danh được toàn.
Lời giải: Số này là người trung trực, đôn hậu, lòng lành, tính bóng. Người tốt trời giúp, tính hay mưu sâu lo xa, trong lòng nhiều lao phiền. Hễ người qúi nhân thì kỉnh trọng mình, mà kẻ tiểu nhân thì vào tình với mình. Hằng do trong tới sinh lui, trở thành làm thủ, họ hàng lãnh đạm, người xa thì lại hoà đồng. Vận trước sát háo, ít có sự tốt; vận giữa lần vào chỗ hay, danh lợi có sự mầng, cương nhu có kẻ giúp, anh em thành bầy, vợ chồng kết bạn. Năm 29 tuổi trở đi, vận thái đem lại, nẻo đông bắc gặp người tri kỷ, đường khoảng được thông. Khoảng chừng khoảng năm Ất Dậu trở lên vận đại thuận, trời đưa con quí tử tống lão. Thọ được 85 tuổi, thác về tháng Mạnh xuân (tháng giêng).
XIII- 1 thước, 2 tấc, 2 phân
Thư đoán:
Một thước, hai tấc, hai phân
Năm xưa tân khổ gian truân đã nhiều
Một thân thất ý đủ điều
Nửa lành nửa dữ bao nhiêu chưa đành
Tới khoảng vận giữa lần hanh
Căn nguyên tấn phát, môn đình đổi thay
Tuổi già vận lại càng hay
Vinh hoa vui vẻ là ngày tự do.
Lời giải: Số này là người tính thuận: Chẳng cương, chẳng nhu, lòng không điều gì thâm độc, tự mình đảm đang công việc, làm việc có thuỷ có chung. Nhưng là số ly tổ, như bầy cò tìm ăn tại nơi bờ ao hoặc khi tụ, hoặc khi tán. Anh em họ hàng chẳng đắc lực, của cải thì nhiều khi thành lại bại, như đám mây gặp gío, xảy hợp, xảy tan, chỉ lao tâm phí lực mà thôi, ấy vận lúc ban sơ thì rủi ro lộn xộn như vậy. Vận giữa thì tổ nghiệp phá hết lại đấy, hai bàn tay trắng làm nên nhà, thẳng qua khoảng 35, 36 tuổi mới cho lập thành nghiệp, ngoài 40 tuổi trở đi thì như thuyền gặp chiều gió thuận, ngoại 50 tuổio thì nhiều bề yên phận; Vận cuối thì sự nghiệp hưng long, tài nguyên tấn phát, dằng dặc chẳng cùng. Cung Thê thì hai tuổi cùng cao số phối hợp với nhau. Cung Tử tức thì hiếm hoi, chỉ có con rể, con gái và con nuôi tống lão mà thôi. Thọ được 70 tuổi, thác về tháng năm.
XIV- 1 thước, 2 tấc, 3 phân
Thư đoán:
Số như sóng nổi lênh đênh
Bông sen đầu đội, chẳng đành tự do
Bôn ba nào đã rồi cho
Bạc đầu vẫn giữ cái trò bôn ba
Khuyên ai yên phận thôi mà
Đông Tây chạy vẫy cũng là uổng công
Miễn sao ăn ở đành lòng
Thân sau hoạ gặp, nghe trong mệnh trời.
Lời giải: Số này là người lòng lành, tính nóng, có Miệng, không lòng (nghĩa là trong lòng có gì nói ra Miệng hết), thô suất không tinh tế. Một đời bôn ba lao khỗ, không nhờ cậy được họ hàng, nhưng cũng không có nạn lớn. Cung Thê có khắc, hai tuổi cứng cỏi, nhưng không sát nhau. Tổ nghiệp điêu linh, tự lập nên nhà. Sự nghiệp buổi ban sơ dường như lá rơi bèo nổi, lao tâm dùng hết cả ngàn phương kế, cũng thành vào ích, phải ly tổ đi lưu lạc tha hương mới khỏi lo, thẳng tới khoảng 25, 26 cho chí 38, 39 tuổi. Ngoại 40 tuổi trở đi, như đám mây đen tan hết, mặt trời mọc cao tlợn đuổi đại vận 10 năm mới thành nghiệp; khoảng chừng năm 51, 52 tuổi giữa lúc thanh thiên bạch nhật có xảy sự kinh khủng thình lình. Khoảng 54, 55, 56, 57, 58 tuổi lại được bình thường qua mấy năm. Khoảng trước sau 60 tuổi dường như hoa trỗ (nở) gặp mưa dầm, chắc hẳn có người lại ám hại, vậy trong nơi cơ sự nên phải tiểu tâm cẩn thận. Con sớm khó nuôi, chỉ khéo được một con trai tống lão là cùng. Thọ được 73 tuổi, thác vào trong tháng mười một.
XV- 1 thước, 2 tấc, 4 phân
Thư đoán:
Cốt này sau ngắn, trước dài
Anh em thân thích lạc ngoài phương xa
Tâm cơ tân khổ những là
Bởi châng số vận trở ra muộn màng
Một mình toan tính trăm đường
Giao qua vận cuối mới đang tấm lòng
Tuổi già y lộc hưng long
Cây già hết trái dòng dồng phúc dư.
Lời giải: Số này là người bẩm tính trung thực lòng kiêu, khí ngạo. Giúp việc cho người thường hay làm ơn nên oán. Anh em họ hàng chẳng được đắc lực. Năm xưa lộn xộn, vận rủi thời quai, cốt nhục vào tình, của như tuyết tan, mệnh như nhạn độc, một thân một mình, không người giúp đỡ. Hạn trước vận mệnh rất đen, khoảng 28, 29, 30 tuổi chưa hề giao tới vận tốt, mà tới khoảng giao vận thì gặp lúc bĩ cực, phải chịu khổ sở khó khăn. Tới năm 35, 36 cho chí 40 tuổi dường như bông kim cúc gặp gió thu, dùng hết tâm cơ, mới gặp được quí nhân phù trợ. Vận cuối giao tới mới xứng lòng, tổ nghiệp có có phá vỡ rồi chỉnh lại mới, dường như cây khô lại trổ bông vậy. Cung Thê thiếp thì tuổi Dần, tuổi Thìn không sát. Cung Tử tức thì hiếm hoi lắm, cầu được con côi tống lão cũng là miễn cưỡng, Song vì có tâm địa tốt, nên trời đền cho; khoảng 59 tuổi có một hạn, tới năm 69 tuổi có hai con. Thọ được 83 tuổi, thác về tháng mười.
XVI- 1 thước, 2 tấc, 5 phân
Thư đoán:
Năm xưa y lộc dẫy đầy
Giao qua hạn giữa là ngày của tan
Gặp khoảng cực khổ lầm than
Vợ chồng khắc sát muôn ngàn thảm thương
Ai ơi chứ oán muộn màng
Có cơ bĩ cực, có đường thái lai
Chờ cho vận cuối phát tài
Cây già kết trái bằng hai những ngày.
Lời giải: Số này là người tính nóng, chẳng hề sợ ai, có tài lâm cơ ứng biến, như quí nhân gặp muộn, tổ nghiệp không còn. Số phải làm con nuôi người ta, hay là rể nhà vợ. Anh em bậu bạn ít được nhờ, một mình dựng nên cơ nghiệp. Hạn trước giao qua vận mộ khố (vận hãm) của như tuyết mùa xuân, bị khí ấm tan đi mất. Hạn giữa gầy dựng trở lại, dần dần thẳng giao đại vận, qua hạn cuối mới được thành gia lập nghiệp, số giàu có đã định tlợn lúc tuổi già, nhớ lại khoảng tuổi nhỏ thì có vẻ hơn nhiều. Người xưa nói rằng: "Chịu được khổ trong khổ, mới la người trên người". Chính là cung số này vậy. Cung Thê có khắc, cưới vợ nhỏ không sát. Cung Tử thì chỉ có một trai, một gái tống lão. Thọ được 70 tuổi, nếu qua hạn ấy thì được tới 75 tuổi, thác vào trong tháng bảy.
XVII- 1 thước, 2 tấc, 6 phân
Thư đoán:
Đồng bằng, cọp bị chó khi
Rồng e tôm đùa cũng vì nước nông !
Vận xưa bối rối bòng bong
Khắc con, sát vợ trong vòng tai ương !
Của nhà hao tổn trăm đường
Chờ cho âm cực thì dương mới khoảng
Tuổi hầu bốn mươi mới thôi
Vào kỳ vận cuối hiện ngôi sao lành.
Lời giải: Số này là người bẩm tính thuần hoà, làm việc siêng năng. Kẻ tiểu nhân không bằng lòng, làm ơn nên oán, xử nghĩa sinh phi, trở làm thù khích. Anh em có khắc than bằng khuấy rối, thết cơm đãi rượu họ, rồi họ trở lại nói xấu mình. Vận trước bình thường, giao tới khoảng 26, 27 tuổi thì dường như nước cạn chở thuyền, việc gì cũng có tổn hại, chẳng được tụ của. Hạn giữa lộn xộn: Sát vợ, khắc con. Giao qua 40 tuổi mới được thành gia lập nghiệp, mọi đường toại ý, các cái xứng tâm. Tới khoảng 47, 48 tuổi có một tai nạn, vài năm ấy chỉ e hại của, giao qua mới có thể khỏi được. Sau đó có mười năm vận tốt tới, của cải trong nhà đầy đủ. Cung Tử tức có ba con thật, một con giả tống chung. Thọ được khoảng 73, 74 tuổi, thác vào trong tháng ba.
XVIII- 1 thước, 2 tấc, 7 phân
Thư đoán:
Số này xa cửa lìa nhà
Một đời cơ nghiệp dựng hai ba lần
Thành gia chỉ bởi một thân
Dụng tâm kiên trí, phong trần chẳng lay
Môn đình thay đổi mới hay
Qua khoảng truân kiển có ngày hanh thông
Khi nên trời cũng chiều lòng
Thân vinh, nghiệp thịnh, nhằm vòng vận sau.
Lời giải: Số này là người tính trực, lanh lợi quai xảo, có tài cơ biến. Bình sinh không có nạn lớn. Chẳng giữ được tổ nghiệp, tự thành tự lập, hai bàn tay trắng làm nên nhà mới đại lợi. Người thân tình nhạt nhẽo, anh em ít đứng với được. Số nên học tập nghệ thuật, hoặc ra vào cửa công, có thể tìm được của bốn phương. Song, khéo hai tay tìm tiền, mà không có túi đựng tiền. Nét mặt vui vẻ, ăn ở với người rất tốt, còn nơi chẳng vừa lòng thì chỉ tự lòng mình biết mà thôi. Vợ muộn, con muộn, vận trước lao lực bôn ba, 40 tuổi trở đi mới giao đại vận, dường như cây khô gặp xuân. Khoảng trên 49 tuổi có một tai nạn. Năm đó qua rồi, phúc tinh chiếu tới, lại có vận tốt mười năm, tài lộc rất thịnh vượng. Cung Thê có cứng cỏi mới được giai lão, cung Tử có hai con tống chung. Thọ được 69 tuổi, thác vào tháng mười một.
XIX- 1 thước, 2 tấc, 8 phân
Thư đoán:
Một tay chỉnh đốn gia môn
Điền viên lưu để tử tôn lâu bền
Kể từ vận giữa sắp lên
Anh em sum hợp trở nên khí hoà
Hỏi rằng người ấy sao mà
Tu chi mà được cửa nhà thịnh xương ?
Tự nhiên phúc lộc miên trường
Càng giao vận cuối lại càng hanh thông.
Lời giải: Số này là người làm việc có tài, tuỳ cơ ứng biến, lập tính giữ gìn, biết đường khinh trọng, giao kết với bằng hữu như anh em, độ lạng rộng rãi, thấy người thiện chẳng khi, gặp người ác chẳng sợ, bình sinh chính trực, không có sự hiễm nạn gì lớn. Chỉ vì ít giữ được tổ nghiệp, hạn trước ăn mặc chỉ không đến đỗi thiếu mà thôi. Cung Thê gặp muộn mới tốt, cung Tử muộn mới nuôi được. Ngoài 40 tuổi cho chí 50 tuổi vận cuối hanh thông rất thịnh vượng phúc lộc không thiếu, tài nguyên dẫy đầy, mặc đủ ăn no, cửa cao nhà rộng. Cung Thê thì trông số có hai vợ: có 2 trai, 3 gái tống chung. Thọ được 80 tuổi, thác vào trong tháng chín.
XX- 1 thước, 2 tấc, 9 phân
Thư đoán:
Trời xuân trỗ một nhành hoa
Bị bầy ong bướm nhảng qua phá tàn
Thân tình như giá với than
Người ngoài, họ khác lại dan díu tình
Vận xưa vất vả lênh đênh
Vinh hoa phú thịnh để dành vận sau
Kể từ hạn giữa nắp sau
Môn đình thay đổi càng lâu càng bền.
Lời giải: Số này có nhiều tài năng, tâm cơ linh xảo. Vận xưa tổ nghiệp điêu linh, phải ly hương, đi xa mới làm nên sự nghiệp. Anh em ít sức giúp vì, lộn xộn nhiều mối. Là người ở chỗ tịnh thì yên nhàn, ra ngoài thì có người kỉnh trượng, tấn được của bốn phương, có quí nhân phù trợ, gặp hung hoá cát, tịnh không có nguy hiểm, một đời không có nạn lớn. Chỉ ngặt đỗi cứu người vào công, làm ơn nên oán, trọng nghĩa khinh tài, của cải dễ tụ lại dễ tán, năm xưa chẳng được tụ của. Giao tới khoảng 33, 34 tuổi mới biết mùi cay ngọt, mọi sự dễ thuận; khoảng 38, 39, 40 tuổi thì được như ý xứng tâm, của đầy như biển, thọ cao như non. Song cung Thê có khắc, hai tuổi có đồng cứng cỏi thì mới không sát. Cung Tử khó nuôi, hễ sinh con gái đầu lòng thì được yên hảo, có hai con tống chung. Thọ được 69 tuổi, qua hạn ấy thì được 81 tuổi. Thác về trung tuần tháng ba.
XXI- 1 thước, 3 tấc
Thư đoán:
Số này lộn xộn nhiều bề
Cung Thê có khắc, chẳng hề sai ngoa
Tuổi thư khác họ mới qua
Anh em chẳng hợp, chia nhà cùng nhau
Chí cao, lạng rộng, lòng sâu
Tính trời phú bẩm ban đầu tự nhiên
Hạn xưa chẳng tụ tài nguyên
Giao về hạn cuối mới yên nghiệp nhà.
Lời giải: Số này là người tính tình hoà bình, có cương, có nhu, lòng không thâm độc. Tự thành tự lập, là số ly tổ. Mang lòng ngạnh trực, chẳng chịu lời người; ưa kết bậu bạn, độ lạng khoan hoằng, tâm cơ linh xảo. Tổ nghiệp suy vi, họ hàng ít sức, cốt nhục vào tình. Hạn trước tuy yên, nhưng chưa được thuận, của tìm được mà không đỗ, hưởng cái của điền viên thì được khoái lạc thanh nhàn. Hạn giữa thay đổi môn phong, nghiệp nhà lần lớn, nhưng của cũng chẳng tụ cho lắm được. Vận cuối mới đành dựng nên cơ nghiệp. Cung Thê phải cưới vợ lần nữa, có cứng cỏi mới không sát và có tật nhỏ mới được vào hại. Cung Tử thì con thật, con giả có hai người tống chung. Thọ được 72 tuổi, thác về trong tháng bảy.
XXII- 1 thước, 3 tấc, 1 phân
Thư đoán:
Năm xưa vận hãy dở dang
Tới khoảng vận giữa gấm càng thêm hoa
Nếu nhờ kẻ quí giúp qua
Sau này lập nghiệp vinh hoa có ngày
Số này độ lạng rộng thay
Chỉ hiềm thân thích chẳng hay thuận hoà
Người hiền gầy dựng nên nhà
Phúc tlợn vận tới càng già càng hay.
Lời giải: Số này là người háo thiện, lớn nhỏ đều hay, ưa kết thân bằng, chẳng chịu người khi; làm công việc gì thì lạng rất rộng rãi và lanh lợi quai xảo. Chỉ hiềm anh em họ hàng đều chẳng đắc lực, nuôi người thì người bội nghĩa, cứu người thì người phụ ân,làm ơn nên oán, xử thị thành phi, thiện nhân thì kỉnh trượng, tiểu nhân thì chẳng bằng lòng. Tổ nghiệp ít giữ được, thân thích vào tình, tự lập nên nhà, ra ngoài mới tốt. Số phải vợ muộn, con muộn, nếu sớm thì chỉ như bống hoa trong tướng, như bóng trăng dưới nước mà thôi. Vận trước không lợi, giao qua ngoài 30 tuổi trở đi, dần dần bước lên, có thể trông được. Một vận khoảng giữa, gia đạo hưng long, dường như trên gấm thêm hoa, tấn phát tài nguyên, dựng nên sản nghiệp. Cung Thê có khắc, hai tuổi đồng cứng mới không sát. Tử tức có hai người tống chung. Thọ được 72 tuổi, thác về tháng trọng thu (tháng tám).
XXIII- 1 thước, 3 tấc, 2 phân
Thư đoán:
Lao tâm lao lực chưa thành
Hãy chờ hoa trỗ, trái đành khá trông
Sẽ nhờ kẻ quí giúp công
Thang mây bước tới, hanh thông có ngày
Hạn xưa còn khó nhọc thay
Khoảng chừng hạn giữa vận rày mới yên
Gia tài trông dịp tiến lên
Giao qua vận cuối mới nên thịnh cường.
Lời giải: Số này là người tuấn mã, trong bụng nhiều bề so tính, làm việc chắc chắn, thủ đoạn cao cường, biết đường khinh trọng, việc dữ chẳng làm, trượng già, thương nghèo, thân nhàn, lòng nhọc, hiếu thuận mẹ cha, ăn mặc không thiếu. Chỉ vì họ hàng ít sức, cốt nhục tình sơ, trong nơi tổ nghiệp có phần phá hoại, ly tổ mới tốt, tự lập nên nhà. Vận trước rủi ro, chẳng tụ được của, khéo hai tay tìm tiền, mà chẳng có túi đựng tiền. Nếu trông nghiệp nhà được nên, giao qua khoảng 37-38-39 cho chí ngoài 40 tuổi trở đi, mưu việc mới nên được, làm việc mới rồi được, dần dần tinh thần sảng khoái, ý khí khoan thư. Chỉ hiềm một đời cốt nhục vào duyên. Cung Thê lớn thì từ năm 20 tuổi, nhỏ thì từ năm 18 tuổi mới không sát. Có con sớm khó nuôi, hai vận giữa và cuối có thể sinh được 3 trai, 2 gái tống lão. Thọ được 63 tuổi, qua hạn đó thì đặngu 79 tuổi, thác vào trong tháng bảy.
XXIV- 1 thước, 3 tấc, 3 phân
Thư đoán:
Số này tính khí rất cao
Họ hàng cốt nhục tiêu hao thường liền
Ra ngoài hiểu quí tự nhiên
Vận già sẽ thấy có duyên phú hào
Từ tuổi xanh chí niên cao
Tự mình khoái lạc thì nào chịu ai
Có công suất ngoại cầu tài
Phúc dày, lộc hậu, lão lai xứng lòng
Lời giải: Số này tâm tính cương cường, chẳng sợ người khi, thường làm sự tốt cho người, trở thành cừu khích, làm ơn nên oán, xử nghĩa thành qui. Tự sáng tự lập, hạn trước bôn ba, gia tài ít tụ; ra ngoài kinh dính sẽ tốt, ở nhà vào ích, 30 tuổi trở đi chẳng được xứng lòng, tới 60 tuổi mọi sự như ý, vận cuối hanh thông. Hào Huynh đệ vào tình, cung Thê có cứng cỏi mới được giai lão, cung Tử tức muộn màng. Xét ra một đời chỉ có trời làm chủ cho mà thôi, chứ của tổ nghiệp thì thật không nửa chút nào để lại. Nếu bàn về tiền vận thì phần nhiều lộn xộn, ai hay đâu hậu vận còn được hưởng vinh thoa, dường như rễ sen (vị đắng) sinh ra vị cam thảo (vị ngọt), mới tin rằng ngọt tlợn đắng đem lại. Có 3 con tống chung. Thọ được 63 tuổi, thác vào trong tháng chín.
XXV- 1 thước, 3 tấc, 4 phân
Thư đoán:
Vốn người cốt cách cương cường
Sinh ra tâm tính chủ trương tự mình
Chắc sao cũng phải biến canh
Sau này gia đạo mới đành bình yên
Vận xưa lộn xộn lo phiền
Giao qua vận giữa tài nguyên tới lần
Sớm hôm lo liệu ân cần
Vận sau xảy thấy tấm thân được nhàn.
Lời giải: Số này là người tâm tính minh mẫn, làm việc có phép, biết đường khinh trọng, việc dữ chẳng lành, kính Phật sống Thần, mến già, thương nghèo, thân nhàn mà tâm chẳng nhàn, hiếu dưỡng mẹ cha, y lộc không thiếu. Chỉ ngặt đỗi họ hàng chống sạch, anh em vào tình, chắc phải đổi họ đổi tên, hay là làm thừa tự người ta, thì gia đạo mới được bình yên thịnh vượng. Vận trước bôn ba lao lực, chỉ uổng công phí sức mà thôi, tổ nghiệp thì điêu linh hết trọi. Giao qua khoảng 27, 28 cho chí 31, 32 tuổi mưu việc gì cũng thành, làm việc gì cũng rồi, kinh dinh buôn bán, của cải như nước chảy tới, phục quan phượng chức, dần dần thấy có tin mừng. Cung Thê nên kết duyên cùng tuổi Mão, tuổi Mùi hay là tuổi Hợi mới khỏi sát được. Có con sớm khó nuôi, vận cuối có thể sinh được hai con, nhưng chỉ có một con gái tống chung mà thôi. Thọ được 72 tuổi, thác về tháng hai.
XXVI- 1 thước, 3 tấc, 5 phân
Thư đoán:
Năm xưa du lịch phương ngoài
Giao qua vận giữa đường tài chưa thông
Hạn sau chẳng phải dùng lòng
Của tlợn vận tới khá trông nên nhà
Số này tuổi nhỏ đã qua
Chỉ e nhiều vợ, tuổi già không hay
Đường con đắc lực khó thay
Công danh phú quý chẳng ngày cậy trông.
Lời giải: Số này là người Miệng lanh, lòng hiền, chẳng chịu người khi, yên thân ở nơi nhàn tịnh thì tốt, hễ làm việc cho người thì trở ra cừu khích, tỏng ơn chiêu oán, tính muốn hơn người, giao du với bậu bạn thì thành thật không dối, 30 tuổi trở về trước tiền tài chẳng tụ, gia sự chẳng nên, ly tổ sinh nhai, tự thành tự lập, anh em như người qua đường, của cải như mây gặp gió. Cung Thê có khắc, cung Tử sát thương. Khoảng 35, 36 tuổi nên nhà, lại qua khoảng 48, 49 tuổi trở đi, vận tới như cây dương liễu gặp xuân. Đó là số nên ở nhà chứ chẳng nên ra ngoài kinh doanh. Năm 58 có tai tinh xâm phạm, ngoài 60 tuổi được nhiều yên ổn cho tới 15 năm về khoảng tuổi già. Số này cả đời không ngại sự, vận giữa đủ ăn đủ mặc, về già vợ con không khắc sát, có một con tống lão, thọ được 70 tuổi, thác về tháng tám.
XXVII- 1 thước, 3 tấc, 6 phân
Thư đoán:
Cách du hành khiến người sầu
Ruộng nhà tổ nghiệp khó âu giữ lành
Tuy rằng có kẻ thân tình
Trước còn sum hợp, sau đành biệt ly
Số sao số chẳng định kỳ
Hoặc khi tốt thịnh, hoặc khi điêu tàn
Ra ngoài doanh nghiệp có duyên
Quí nhân phù trợ, phúc điều khá trông.
Lời giải: Số này là người tính trực, lòng thành không thâm độc. Cứu người vào công, lại chiêu lấy tiếng khẩu thiệt. Tổ nghiệp không được nhờ, gia đình chỉnh lại mới. Thân tình như giá với than, của cải như mây gặp gió. Vận trước vất vả như lá trong gió; vợ muộn con muộn, vận mệnh chậm chạp, sớm phải phá bại. Thẳng giao tới 39 tuổi mới được vận tốt; no ăn đủ mặc, nhưng cũng còn chưa thoát phá bại; vận cuối mới phát phúc sinh tài. Số này có của ngoại phương, chỉ nên ra ngoài kinh dinh, có quý nhân phù trợ, mới được giao vận tụ tài. Khoảng 48-49 tuổi dần dần tinh thần sảng khoái, thường thường hỷ khí phát sinh. Cung Thê có cứng cỏi mới đứng được với nhau, cung Tử được ba con, khéo thì chỉ có hai con tống chung. Thọ được 73 tuổi, thác về Tiểu tuyết (tháng 10).
XXVIII- 1 thước, 3 tấc, 7 phân
Thư đoán:
Cơ mưu xử sự lập thân
Hạn đầu hạn giữa gian truân đã nhiều
Chờ khi vận cuối thuận chiều
Quí nhân phù trợ mới hầu gặp xuân
Vào duyên với kẻ thân nhân
Anh em như thể nước lần phong ba
Năm xưa hai vận đã qua
Giao về vận cuối nghiệp nhà mới nên.
Lời giải: Số này là người linh xảo, quý nhân thấy vui, tiểu nhân thấy ghét. Chẳng giữ được tổ nghiệp, tự mình lập thành gia kế. Không cậy anh em, vào duyên với cốt nhục, hạn trước lộn xộn, của cải như mây gặp gió. Ngoài 30 tuổi trở đi hơi có ý khởi Sắc, dần dần nên nhà, sự nghiệp hanh thông. Giao tới khoảng 35, 36 tuổi có vì tai tinh chiếu mệnh, nếu gặp việc hiếu, việc hỷ thì giải đi được, tới năm 39 tuổi trở qua vận tốt, năm 43 tuổi tai tinh cũng chẳng làm nạn, thẳng giao tới năm 56 tuổi mới thành vận hay, năm 58 tuổi sự nghiệp thịnh. Vận cuối gia tài chấn chỉnh lại, dường như cây khô lại gặp khí xuân, Cung Thê thiếp thì kết duyên với những tuổi Sửu, Ngọ, Mùi, Hợi mới hay; cung Tử tức thì mấy tuổi Dần, Thình và Thân mới nuôi được. Cưới vợ nhỏ thành duyên, con thì trước báo hoa, sau kết trái (nghĩa là sau khi mình qua đời thì vợ nhỏ mới sinh con). Thọ được 63 tuổi, qua hạn ấy thì được 79 tuổi, thác về trong tháng chín.
XXIX- 1 thước, 3 tấc, 8 phân
Thư đoán:
Tính người cảnh trực hiền hoà,
Tuổi xanh vất vả, tuổi già thảnh thưi.
Sinh thành định tự số trời,
Tổ cơ phá tán, gia tài tiêu hao.
Chờ cho vận thái đã giao,
Hạn qua bốn chín, lên cao dần dần.
Phúc thừa thời báo thiện nhân.
Thọ khang phú hậu riêng xuân một nhà.
Lời giải:
Số này là người lập tính cảnh trực, giúp người chẳng đắc lực, trọng ơn thành oán, hảo nhân thì kính trượng, tiểu nhân thì chẳng bằng lòng, chẳng lợi tổ nghiệp, phá tài ly tán, tự lập tự thành. Khoảng 23, 24 tuổi qua 28, 29 tuổi, chính là đi thuyền được gió thuận; qua khoảng 35, 36 tuổi được có con thành gia, dần dần thịnh vượng, sản nghiệp đã phá vỡ rồi được chỉnh đốn lại, cho tới năm 41 tuổi còn là cây khô lại gặp khí xuân. Năm 45, 46 tuổi nếu chẳng gặp điều thi phi, ắt lại phá của. Thẳng qua năm 49 tuổi giao năm 50 tuổi, vào khoảng vận cuối, gia đạo mới thành. Cung Thê thì vợ kế mới được tới già. Cung Tử được 3 con, nhưng chỉ có 1 cong tống lão, mà hai họ mới lành. Thọ được 74 tuổi, thác về tháng chín.
XXX- 1 thước, 3 tấc, 9 phân
Thư đoán:
Cách này thân tự lập thân
Lộc kim sinh bởi tiều nhân để danh.
Cầu cho quang hiển gia đình,
Bôn ba lao lực năm đành ba mươi.
Phong trần ngồi những đợi thời,
Thư song tịch mịch nào ai biết cùng!
Một mai vận được hanh thông,
Phong lưu đã bỏ trong vòng trần ai.
Lời giải:
Số này là người tính trực, việc có thuỷ có chung, rất mực hơn người, bình sinh y lộc không thiếu; kính già, thương khó, tự lập tự thành; kỉnh Phật, trượng Thần, có nghĩa, có lễ. Làm việc cho người, trở ra chiêu tiếng thị phi, làm ơn nên oán, cứu người vào công. Hạn trước rủi ro lao lực; có tiền chẳng đỗ. Hạn giữa dần dần như ý, song anh em họ hàng chẳng đắc lực, vợ chồng có sát, năm 27 chẳng lợi, năm 36 rất được như ý, nhưng có gặp sự hiếu hỷ xung nhau, mới khỏi phá của; khoảng 39 tuổi qua năm 40 tuổi trở đi mới thật thuận ý, lợi về phương Nam; đại vận tới năm 50 tuổi; trước khoảng 48, 49 tuổi có một sự trở ngại, dường như trăng sáng bị đám mây che đi; ngoại 50 tuổi chính đang vận cuối, bình yên cho được tới già, có hai người con, thọ được 78 tuổi, thác về trong tiết đại tuyết (tháng 11).
XXXI- 1 thước, 4 tấc
Thư đoán:
Cách này no đủ y lương,
Phúc kiêm phú quý thọ khang một đời.
Ôn hoà trung hiếu tính trời,
Môn phong gầy dựng tự người hiền lương.
Câu rằng: "Hoà khí trí tường",
Tài nguyên hưng vượng, gia đường vẻ vang.
Anh em con cháu thịnh cường,
Càng về vận cuối lại càng thêm xuân.
Lời giải:
Số này là người kỉnh trượng mẹ cha, có phúc có lộc, họ hàng hoà mục, nghĩa khí cao cường, kỉnh Phật trượng Thần, mến già, thương khó. Tuổi xanh chăm học, có cách công danh, trung hiếu lưỡng toàn, giàu sang có phận. Ra ngoài mọi người mến kính, bốn biển tướng danh. Dầu khoảng tuổi nhỏ có bề không lợi moọt chút, nhưng một đời bình khang, vận cuối yên hưởng phúc lộc, vinh hoa tới già, anh em thuận hoà, con cháu vượng tướng. Hạn trước cần cù lao khổ, sớm thành gia kế; hạn giữa dần dần sinh tài, chỉnh lại môn phong; hạn cuối phú quý vinh hoa. Cung Thê không khắc, cung Tử có 3 trai, 2 gái tống chung. Thọ được 83 tuổi, thác về tháng trọng đông (tháng 11).
XXXII- 1 thước, 4 tấc, 1 phân
Thư đoán:
Cách này no đủ y lương
Bôn ba lúc trẻ, yên khang lúc già
Một tay gầy dựng cửa nhà
Lao tâm, phí lực kể đà lắm thay
Giao quân vận cuối sau này
Tài nguyên phát đạt, sự hay dần dần
Vợ chồng con cái quây quần
Dần chẳng phú quí, cũng xuân một nhà.
Lời giải: Số này là người lập tính cương cường, dời đổi tổ nghiệp, tự thành tự lập, lao tâm phí lực, chẳng được yên nhàn. Biết đường trọng khinh, kính già, thương khó, việc dữ chẳng làm, lòng lành không độc. Chỉ vì một đời nghịch với kẻ tiểu nhân, cho nên thường chiêu thù khích. Mấy năm hạn trước phát đạt nho nhỏ, tự thành gia kế, lần được yên khang. Khoảng 48, 49 tuổi giao vận cuối, lần lầm mưu việc được thành, làm việc được rồi, vận già hanh thông, tài nguyên mậu thịnh. Cung Thê thiếp có khắc, nhưng hai tuổi cùng cứng nên không sát nhau. Cung Tử tức muộn màng, sinh được 4 con, nhưng chỉ có một con tống lão. Thọ được 49 tuổi, nếu không thì năm đó cũng có tật bệnh hay là tai nạn, nếu qua hạn đó, được tới tuần hoa giáp (60 tuổi), thác về trong tháng quý đông (tháng 12).
XXXIII- 1 thước, 4 tấc, 2 phân
Thư đoán:
Hạn xưa chưa sớm hanh thông
Như thuyền trôi dạt tại trong cạnh bờ
Số trời định những bao goìơ
Tài tinh tọa mệnh ngày chờ phát sinh
Một đời tài lộc phong doanh
Giao qua hạn giữa vận hành tiếp tlợn
Ra ngoài kẻ quý người yêu
Đắc tài đắc lộc còn nhiều hạn xưa.
Lời giải: Số này tâm linh tính xảo, nóng nảy không chịu khuất ai. Hạn trước chẳng được tụ tài, hư lợi hư danh, của lại, của qua, có thành, có bại. Một đời có vì sao y lộc toạ mệnh, hạn giữa giao tới, dần dần xứng tâm, mưu cầu điều gì cũng được thuận ý. Ra ngoài doanh nghiệp, được quí nhân phù trợ, kẻ trượng người yêu, tài lợi tự nhiên đem lại, khoảng 46, 49 tuỏi giao qua hạn cuối, nghiệp nhà đại tấn phát, phúc lộc vinh xương, vợ chồng giai lão, con cái đầy đàn. Thọ được ngoài 80 tuổi.
XXXIV- 1 thước, 4 tấc, 3 phân
Thư đoán:
Đường đường một đấng trượng phu
Tài năng tột bậc, mưu du hơn người
Hạn kia Thìn, Tỵ, Thân, Mùi
Đẩu tinh chiếu diện một trời văn minh
Trước là việc lớn huờn thành
Nối tlợn việc nhỏ tốt lành mười phân
Môn phong gia nghiệp trùng tâu
Một nhà núp bóng tùng quân ngàn tầm.
Lời giải: Số này tâm linh tính xảo, giả xử thành chân, Miệng thẳng, lòng ngay, sự cơ chẳng giấu. Vì kẻ tiểu nhân không vừa ý, cho nên lúc nóng lòng làm việc hay chiêu cừu oán. Người quân tử kính yêu, kẻ tiểu nhân ganh ghét, ít có duyên với cốt nhục. Hạn xưa bôn ba lao lực, khó khỏi đổi phong trần. Chí tại bốn phương, thân tâm tiến thoái vào chừng. Hạn trước thừa vận âm, ít gầy dựng được, gặp mà chẳng gặp, có tài chưa dùng ra được, năm 39 tuổi vận tới, có thể phát tài, hễ lo xa thì không lỗi; hạn giữa tổn tài, vận làm ăn còn lẩn quẩn, hạn sau là ngày thành đạt, thinh danh khá trở lên cao, nghiệp cũ chỉnh đốn mới lại, lợi danh đều tấn phát. Cung Thê giai lão, có tâm điền để phúc lại sau. Cung Tử thì số này hễ việc nhỏ nên sửa sang cẩn thận, mới được có con. Thọ được 82 tuổi, thác về tháng mạnh đông (tháng 10).
XXXV- 1 thước, 4 tấc, 4 phân
Thư đoán:
Ôn lương cung kiệm chí bền
Trời sinh hưởng lộc tự nhiên chẳng cầu
Cả đời thật số sang giàu
Vinh hoa cho tới bạc đầu còn dai
Thoa cung lớn nhở hoà hài
Tử cung ba vị, còn hai nối đời
Số này ba hạn thảnh thưi
Người lành có phúc tự trời để cho.
Lời giải: Số này là người tâm linh tính xảo, chí khí cương cường, đủ trí nhiều mưu, làm việc tinh tế, cốt cách nguyên là ngọc trong hòn đá (có số giàu sang sẵn). Tuổi nhỏ cần học, lợi danh thành tựu, khoái lạc tiêu diêu, tài lộc có thừa, lạng rất rộng rải. Vận trước như gấm thêm hoa; vận giữa giao lại, tự lập thành nghiệp, dần dần vinh thịnh, thêm người, thêm của, số phải vợ sớm con muộn mới tốt, khoảng 40 tuổi tới 45, 46 tuổi được xem thấy con thành danh. Hạn cuối giao lại vận mộ khố, vãn cảnh vinh hoa mười lăm năm. Số này một đời nhiều sự đắc ý, trong nhà tài sản rất phong túc. Cung Thê thiếp không khắc sát, sung Tử tức được 3 con, chỉ may được 2 người tống chung. Thọ được 73 tuổi, thác vào trong tháng giêng.
XXXVI- 1 thước, 4 tấc, 5 phân
Thư đoán:
Số cao tội nạn lâm thân
Gian truân lắm độ, phong trần nhiều khi
Tha hương lập nghiệp lưu ly
Lâm về vận cuối mới thì được yên
Cần lao tân khổ thương liền
Không nhờ tổ nghiệp, vào duyên họ hàng
Đều do số định sẵn sàng
Rủi may thì cũng chủ trương tự trời.
Lời giải: Số này là người lập tính ngạnh trực, làm việc có đầu có đuôi, mình cao lòng cũng cao. Ít được cậy nhờ họ hàng, anh em như khách qua dường. Cung Thê như cái bánh vẽ, cung Tử như đồ hoa giả, nghiệp chẳng đỗ số, số phải đi lưu lạc tha phương buôn bán làm ăn, làm việc với người, trở ra chẳng tốt, chẳng boà với chúng. Hạn trước của lại, của qua; hạn giữa chịu được khổ sở bôn ba, rồi mới toại ý; vận cuối bình yên được mấy năm. Tài bạch có danh không thật. Cung Thê có số cao mới đứng được; cung Tử không có con trai, tới già chỉ có 3 con gái và một con giả tống chung mà thôi. Thọ được 63 tuổi, thác về tháng tư.
LỜI DẶN
Người xem nên chú ý
Thuật số là phép mầu nhiệm, biến hoá huyền vi, cho nên kinh Châu Dịch là sách bói toán, mà đức Khổng Tử dạy rằng: "Dịch là biến dịch". Nghĩa là dương biến âm, âm biến dương. Cát biến hung, hung biến cát, tương thể đều biến hoá không chừng. Nay hãy dẫn mấy câu chuyện thường làm tỷ lệ như sau này:
1- Có người trở đi buôn bán tha phương, tới thầy bói xem quẻ cầu tài bản mệnh, thầy độn quẻ gặp hào Cửu ngọ quẻ Càn, hào từ rằng: "Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân". Nguyên nghĩa là: Rồng bay tại trên trời, lợi về được gặp đứng đại nhân. Đó là tượng đứng minh quân, ngự ngôi đại bảo, lợi về gặp được trang lương thần phò tá. Thầy bói nghĩ thầm trong bụng rằng: "Một người lái buôn tầm thường, làm gì mà ứng được tướng đó". Bèn đoái trái đi rằng: "Anh đi buôn bán qua nơi núi rừng, hay là tới chỗ đô thị, khá tua giữ gìn cẩn thận kẻo e xúc phạm vị quyền quý lớn, hay là chàng ngộ đám đạo tặc lớn nào mà bị hại". Sau người ấy đi quả nhiên bị cướp giết lấy của. Đó là cát biến ra hung.
2- Lại một người kia có vợ bị bệnh, tới thầy bói xem quẻ gia sự bản mệnh. Thầy độn quẻ gặp hào Lục nhị quẻ Ly, hào từ rằng: "Nhập kỳ cung, bất kiến kỳ thê hung". Cứ nguyên nghĩa là: Vào phòng của mình, chẳng thấy vợ của mình, là điềm xấu. Vợ đau mà xem bói gặp tượng như vậy, thì chắc số chết mười phần. Song thầy bói xét cung số của vợ người ấy thì mệnh chưa hết, bèn đoán trái đi mà cắt nghĩa luôn xuống chữ Hung rằng: "Vào cung của mình, chẳng thấy điềm xấu của vợ mình". Sau vợ người ấy quả nhiên hết bệnh, mạnh giỏi như thường. Đó là hung biến ra cát.
Ấy đại phàm các phép thuật số cả đều huyền ảo như vậy, hễ gặp tượng tốt mà phận lạng mình không đương nổi thì biến ra xấu, hễ gặp tượng xấu mà lý - thế mình không phải chịu, thì biến ra tốt. Cho nên tuy rằng trong sách có lời quyết đoán lập thành, mà linh nghiệm còn do tại người cao đoán, dầu gặp quẻ tốt, quẻ xấu chừng nào mặc lòng, phải tuỳ tlợn địa vị, tư cách, phận lạng, hay là cảnh ngộ, chủng loại của cá nhân (cái người ấy) mà đoán, thì mới linh nghiệm.
Giả tỷ như xem cầu danh, ở người thượng lưu thì công hầu khanh tướng là công danh phú quý, nếu ở người trung lưu sắp xuống, thì gọi là có chút phẩm hàm đối với Nhà nước, hay là chút vị thứ đối tổng làng cũng là công danh phú quí - Xem cầu tài, ở nhà đại tư bản thì được phần lợi thức ngàn muôn ức triệu là phát tài; nếu ở người làm ăn buôn bán tầm thường thì dầu được phần lợi tức năm tiền một quan, hay là may mắn hơn khoảng trước cũng là phát tài. Cho nên người thường mà xem gặp quẻ cực phẩm phú quí thì chỉ nên đoán là làm nên người đàn anh nhất làng; gặp quẻ tài nguyên phát đạt thì chỉ nên đoán là làm được thừa ăn thừa tiêu là cùng. Lại như đàn bà mà xem gặp tượng quẻ đàn ông, thì cung Thê thiếp phải đem đoán làm cung Phu quân; đàn ông mà xem gặp tượng quẻ đàn bà, thì cung Phu quân phải đem đoán làm cung Thê thiếp, đó là dương biến âm, âm biến dương. Còn sự tốt hay là xấu, nên hay là hư, lớn hay là nhỏ dường nào, hợp với địa vị, tư cách, phận lạng hay cảnh ngộ và chủng loại thì cứ y lời lập thành mà đoán; nên không hợp thì đều phải tuỳ nghi quyết đoán .v.v... như vậy thì mới gọi là "Biến thông tận lợi" chứ không nệ sách mà cố chấp nhất định được.
Phép xem bói, xem số, xem tướng, đoán mộng cũng như vậy hết cả.
PHỤ LỤC
Toán mệnh sự thật
1- Sách Nguỵ Thái Đông Hiên Bút Lục chép rằng: Trong triều Khánh Lịch đời nhà Tống, Chương tuần Công bãi chức Tể tướng, ra trí Trần châu, đỗ thuyền trên sông Thái hà. Trương phương Bình và Tống tử Kinh đều làm quan Học sĩ, đồng tới chào Công. Công nói chuyện rằng:
- Đời người ta sang hay hèn, đều có mệnh số, hễ người nào mà năm, tháng, ngày, giờ và thai sinh có ba nơi hợp, thì chẳng làm Tể tướng, ắt làm Khu mật phó sứ.
Trương và Tống hai người lui về, triệu kẻ thuật sĩ đem hết số của các quan trong triều suy rộng thử xem, thì chỉ được hai số của Lương Thích và Lã đoan Bật là đều có 3 nơi hợp mà thôi. Trương, Tống than thở chẳng rồi. Thuở đó Lương và Lã đều còn làm một chức quan nhỏ trong triều, mà tới triều Hoàng Hựu thì Lương làm Tể tướng, qua triều Hy Ninh thì Lã làm Khu mật sư, đều như lời Tuần Công.
2- Sách Thiệu Bá Ôn Kiến Văn Tiền Lục chép rằng: Khi Trương Diễn đã 80 tuổi, đem thuật số ra vào cửa nhà các quan, khoảng năm xưa triều Thiệu hưng Thiệu Bá Ông về làm quan tại Tống Yên, nhân hỏi số của Phạm Trung Tuyên Công. Trương Diễn thưa rằng:
- Số của Phạm thừa tướng chỉ đáng làm Tham tri chính sự (Phó tướng) mà thôi, vì số của các vị quý nhân trong triều ngày nay đều chẳng kịp số ngài, cho nên ngài được làm chức chính tướng.
Diễn lại nói:
- Có những mệnh cách đời xưa, ngày nay chẳng dùng được. Vì đời xưa quý nhân ít, phúc nhân nhiều, ngày nay quý nhân nhiều, phúc nhân ít.
Bá Ôn hỏi thuyết đó, Trương Diễn thưa rằng:
- Người mệnh xuất cách đời xưa làm chức Tể tướng, thứ làm Chế đài, thứ nữa Khanh giám, làm Giám tư quận lớn, hưởng phúc lộc, dầu chẳng phải chức Chế đài, phúc cũng chẳng phải ở nơi dưới, cho nên nói rằng: "Phúc nhân nhiều, quí nhân ít". Các quan đời nay từ làm các chức triều quan thăng tới chức Chế đài, xảy bị bãi đi, chỉ hiềm là chức triều quan mà thôi, chẳng được lục dung con cháu, vẫn bần ước như xưa. Số là số phát về hình sát, chẳng lâu sẽ có tai nạn tới, cho nên nói rằng: "Quý nhân nhiều, phúc nhân ít".
3- Sách Duyệt Vi Thảo Đường bút ký chép rằng: Đổng Văn cáp công khi làm Thiếu tư không nói chuyện rằng: "Xưa kia ta ngụ tại thôn Phú dương, có ông già ngồi tại nhà láng giềng nghe có tiếng ta đọc sách mà nói rằng: "Đó là quí nhân vậy". Ông ấy bèn qua xem mặt, quan sát ba bốn lần, lại hỏi tám chữ can chi, rồi ngẫm nghĩ khoảng lâu mà bảo ta rằng: "Tướng mệnh của thầy đều đáng vì nhất phẩm, nên năm mỗ được bổ Tri huyện, năm mỗ thự đại huyện, năm mỗ thật thọ, năm mỗ thăng Tri phủ, năm mỗ do Tri phủ thăng Bố chính, năm mỗ thăng Tuần phủ, năm mỗ thăng Tổng đốc. Thầy nên tự trọng sau này sẽ nghiệm lời lão nói chẳng lầm".
Sau ta không gặp ông già đó nữa, mà lời nói cũng không nghiệm. Song xét kỹ lý lịch đường hoạn bộ sinh bình của ta, thì gọi là Tri huyện đó tức là lúc mới đỗ Cống cử được bổ chức Hộ bộ Thất phẩm vậy; gọi là điều thự đại huyện đó tức là Thứ Cát sĩ vậy; gọi là Thật thọ đó tức là chức Biên tu vậy; gọi là Thông phán đó tức là chức Trung doãn vậy; gọi là Tri phủ đó tức là chức thị độc Học sĩ vậy; gọi là Bố chính sứ đó tức là chức Nội các Học sĩ vậy; gọi là Tuần phủ đó tức là chức Công bộ Thị lang vậy. Chức danh tuy khác, nhưng phẩm trật đều hợp, số năm cũng đúng hết, chỉ quan trọng vớii quan ngoài khác đường mà thôi.
Lời ông già nghiệm mà chẳng nghiệm, chẳng nghiệm mà nghiệm. Còn gọi là Tổng đốc thì lúc đó chưa biết ra sao, sau y số năm Đổng công được thăng Lễ bộ Thượng thư, tức là đối hàm Tổng đốc, phẩm trật cũng đúng luôn.
4- Kiến Văn Tiền Lục lại chép rằng: Cao quán Doanh là một trang danh sĩ, tài cao, học rộng, văn hay, thi Hương đỗ đầu, mà thi Hội rơi hoài, rồi lật đật cho tới cả đời. Khoảng thừa hai mươi tuổi, ngày kia tính số, thấy các vì sao Thiên quan, Văn xương, Thiên khôi, Quý nhân đều nhóm tại một cung, cứ phép thì nên đỗ Tấn sĩ vào viện Hàn lâm mới phải. Vậy mà năm đó chỉ được đỗ dự số ăn lương tập giám mà thôi, duyên gặp gỡ một đời cũng không còn có cái gì đắc chí hơn sự được ăn lương nữa. Số là cái mệnh thiên phú vốn bạc, cho nên dầu có vận cực thành phần được cũng chẳng qua như vậy mà thôi. Nhà thuật số nên lấy lẽ đó mà nghiệm cơ tiêu tức, chẳng nên chỉn nệ phép cứ y tịnh độ mà quyết đoán tốt, xấu vậy.
Đó là dẫn sơ mấy sự thật toán mệnh, được làm tỷ lệ đời người ta không gì chẳng phải là số, mà nhà đoán số cũng phải suy trắc về trong số có lý mà biến thông đi, chứ chẳng nên nệ phép nhật định vậy.
PHÉP XEM TƯỚNG
Nói về hình tổng yếu 13 bộ vị nơi mặt người
13 bộ vị đó tức là cái tổng cương của 120 bộ vị vậy.
v Trên trán có 5 bộ gọi tên là:
1) Thiên trung
2) Thiên đình
3) Tư không
4) Trung Chính
5) Ấn đường
v Năm vị là:
§ Biên địa
§ Dịch mã
§ Sơn lâm
§ Dao đã
§ Hạng lộ
v Giữa Mũi có 4 bộ là
1. Sơn căn
2. Niên thượng
3. Thọ thượng
4. Chuẩn đầu
· 4 vị là:
1) Thiên thượng
2) Kim quĩ
3) Giáp quĩ
4) Viên thương.
· Nơi ngạc (từ lỗ múi tới cằm) là
o Nhân trung
o Hải khẩu (Miệng, tức Thuỷ tinh)
o Thừa tương
o Địa các
· 4 vị là:
·
Ø Trù táo (tức Táo thượng và Tế trù)
Ø Tỉnh khố (Tỉnh bộ)
Ø Điền tran
Ø Phi trì
Xem bộ và vị, so sánh mà bàn ra thì vận mệnh một đời người ta cát hay là hung, thọ hay là yểu, phú quí hay là bần tiện, có thể định được.
1- Thiên trung
2- Thiên đình
3- Tư không
4- Trung chính
5- Ấn đường
6- Sơn căn
7- Niên thượng
8- Thọ thượng
9- Chuẩn đầu
10- Đình uý
11- Lan đài
12- Nhân trung
13- Thuỷ tinh
14- Thừa tương
15- Địa các
16- Hải (Cằm).
17- Thiên nhạc Tả sương
ü Nội phủ
ü Cao quảng
ü Sích dương
ü Võ khố
ü Quân môn
ü Phụ giác –
ü Biên địa
18- Nhật giác
ü Lang giác
ü Thiên phủ
ü Phòng tâm
ü Phụ mộ
ü Thượng mộ
ü Chiến đường
ü Dịch mã
ü Điếu đình.
19- Ngạch giác
ü Thượng khanh
ü Thiếu phủ
ü Giao hữu
ü Đạo trung
ü Giao ngạch
ü Trùng my
ü Sơn lâm
ü Thánh hiền
20- Ngạch giác
ü Hổ my
ü Ngưu giác
ü Phụ cốt
ü Nguyên giác
ü Hoạ kích
ü Hoa cái
ü Phúc đường
ü Thể hà
ü Giao ngoại.
21- Giao toả
ü Tả mục
ü Tàm thất
ü Lâm trung
ü Tửu tôn
ü Tinh xá
ü Thấn môn
ü Kiếp lộ
ü Hạng lộ
ü Thanh lộ.
22- Thái dương
ü Trung dương
ü Thiếu dương
ü Ngư vỹ
ü Gian môn
ü Thần quang
ü Thiên thương
ü Thiên tỉnh
ü Thiên môn
ü Huyền võ.
23- Phu toạ
o Trưởng nam
o Trung nam
o Thiếu nam
o Kim quỹ
o Cấm phòng
o Tặc đạo
o Du quân
o Thư thượng
o Ngọc đường.
24- Giáp quỹ
o Quy lai
o Đường thượng
o Chính diện
o Cô di
o Tỷ muội
o Huynh đệ
o Ngoại sinh
o Học đường
o Mệnh môn.
25- Pháp lệnh :
o Táo thượng
o Cung thất
o Điển ngự
o Viên thương
o Hậu các
o Thủ môn
o Binh tốt
o Ấn thụ.
26- Tỉnh bộ
o Trướng hạ
o Tế trù
o Nội các
o Thiếu sứ
o Bộc tụng
o Kỷ dường
o Anh môn
o Bác sĩ
o Huyền bích.
27- Các môn :
o Tỵ lân
o Uỷ hạnh
o Thông cù
o Khách xá
o Binh lan
o Gia khó
o Thương lã
o Sinh môn - Sơn đầu.
28- Tổ trạch ;
o Tôn trạch
o Ngoại viên
o Lâm uyển
o Hạ mộ
o Điền trang
o Tữu trì
o Giao quách
o Hoang khâu
o Đạo lộ.
29- Hạ xá :
o Nô bộc
o Tha ma
o Khanh thiểm
o Địa khố
o Phi trì
o Nga áp
o Đại hải
o Châu xa.
30- Hữu sương:
o 31 Hổ giác
o Nguyệt giác
o 32- Phúc đường:
o 33- Phồn hà
o Tần điện
o 34- Mệnh môn
o 35- Thiếu nữ
o Trung nữ
o Ngoạ tàm
o Lệ đường
o 36 - Tai (rìa má):
o 37- Đằng xà
o 28- Thọ đới
o 39 - Gi (Hàm)
Nói về hình Ngọ tinh, Lục diệu, Ngọ nhạc, tứ độc
Ø Ngọ tinh (5 ngôi tinh) tức là Kim (tượng loài kim)
Ø Mộc (tượng cây)
Ø Thuỷ (tượng nước)
Ø Hoả (tượng lửa)
Ø Thổ (tượng đất)
Ø Tai tả là Kim tinh, Sắc nên trắng, trắng thì được hưởng quan lộc
Ø Tai hữu là Mộc tinh hình nên hướng lên, hướng lên thì thừa năm phúc
o Miệng là Thuỷ tinh, Sắc nên hồng (hồng), hồng thì có thể được ngôi cao (phú quý)
· Trán là Hoả tinh, hình nên vuông, vuông thì được quan lộc;
· Mũi là Thổ tinh, thịt nên dầy, dầy thì tuổi được thọ trường.
· Lục diệu (6 ngôi diệu) là: Thái dương, Thái âm, Nguyệt bột, La hầu, Kế đô, Tử khí.
· Mắt tả là Thái dương, có bóng sáng thì phúc lộc thịnh;
· Mắt hữu là Thái âm, đen thì có quan lộc.
· Sơn căn là Nguyệt bột, thẳng thì của ăn mặc không thiếu.
· Lông mày phía tả là La hầu, dài thì được hưởng quan lộc;
· Lông mày phía hữu là Kế độ, bằng bặn thì vợ con nhiều phúc.
· Ấn đường là Tử khí, tròn thì được quan cao.
· Ngọ Nhạc (5 núi) là :
· Hành sơn
· Hằng sơn
· Tung sơn
· Thái sơn
· Hoạ sơn.
· Má phía tả là Đông nhạc (núi Đông) Thái Sơn
· Má phía hữu là Tây nhạc (núi Tây) Hoạ sơn, hai núi ấy đều nên trung chính;
· Trán là nam nhạc, (núi Nam) Hành sơn, nên vuông và ngay;
· Mũi là trung nhạc (núi giữa) Tung sơn, cũng nên vuông và ngay, mà cao vót lên tới Ấn đường.
· Cằm là Bắc nhạc (núi Bắc) Hằng sơn, nên dày, cao, tròn, đầy.
1- Nam nhạc Hoả tinh
2- Kế đô
3-La hầu
4- Tử khí
5- Nguyệt bột
6- Trung nhạc
7- Thổ tinh
8- Sông Tế
9- Tây nhạc
10- Đông nhạc
11- Thuỷ tinh
12- Sông Hoài
13- Bắc nhạc
14- Kim tinh
15- Mệnh môn
16- Sông Giang
17- Nguyên châu
18- Kim tinh
19- Mệnh môn
20- Sông Giang
21- Nguyên châu (Mắt hữu) là Thái âm sông Hà;
22-Mắt tả là Thái dương sông Hà.
Ø Tứ độc (4 sông) tức là sông Gianh, sông Hoài, sông Hà, sông Tế.
Ø Tai là sông Giang, cái lỗ nên sâu và xa;
Ø Mắt là sông Hà, nên sâu và có ánh sáng;
Ø Miệng là sông Hoài, nên Miệng nhuận mà Môi với mép che nhau
Ø Mũi là sông Tế, nên dày, cao, tròn đầy chẳng huếch, chẳng lộ thì nhà ắt giàu.
Nói về hình Lục phủ, Tam tài và Tam đình
Ø Lục phủ (6 phủ):
§ Thiên đình và Nhật giác
§ Nguyệt giác là Thiên phủ. Thiên phủ chẳng thành, chủ về khi bé vận rủi.
o Lưỡng quyền (hai gò má) là Nhân phủ. Nhân phủ chẳng thành, chủ về khoảng giữa vận bĩ;
o Địa giác và hai Biên tai (hai rìa má) là Địa phủ. Địa phủ chẳng thành, chủ về tuổi già nghèo khốn.
o Mỗi phủ chủ 10 năm, 1 phủ chẳng thành, thì chủ về 10 năm hung tai, 1 phủ thành thì chủ về 10 năm phú thịnh.
Ø Tam tài (3 tài) - Trán là Thiên (trời), nên rộng mà tròn, gọi rằng có trời thì sang.
o Mũi là Nhân (Người), nên ngay mà bằng, gọi rằng có người thì thọ (sống lâu).
o Cằm là Địa (đất) nên vuông mà rộng, gọi rằng có đất thì giàu.
Ø Tam đình (3 đình) - Từ chân tóc tới Ấn đường là Thượng đình (đình trên), Thượng đình dài khi bé giàu.
o Từ Sơn căn tới Chuẩn đầu là Trung đình (đình giữa)
o Trung đình dài thì khoảng giữa phúc lộc thịnh.
Ø Từ Nhân trung tới Địa các là Hạ đình (đình dưới), Hạ đình dài thì tuổi già tốt lành.
o Ba đình quân bình (đều) thì một đời y lộc không thiếu, ba đình chẳng quân bình thì là tướng nghèo hèn.
1- Thiên Thượng đình
2- Thiên thương Thượng phủ
3- Thiên thương Thượng phủ
4- Nhân trung đình
5- Xương gò má Trung phủ
6- Xương gò má Trung phủ
7- Xương hàm Hạ phủ
8- Xương hàm Hạ phủ
9- Địa Hạ đình.
4- Nói về hình bốn Học đường và tám Học đường
v Bốn Học Đường :
Ø Mắt là Quan học đường. Mắt dài mà trong là người có quan chức
Ø Trán là Lộc học đường, trán rộng mà dài là người có quan lộc và chủ thọ (sống lâu).
Ø Hai cái răng giữa cửa là Nội học đường, lành lặn ngay ngắn mà khít là người hiếu cẩn trung tín, kẽ thưa mà nhỏ là người hay nói bậy
Ø Hai bên trước cửa mang tai là Ngoại học đường, dày, đầy, sáng, nhuận là người thông minh; Sắc ướt tối thẫm là người ngu tối.
v Tám Học đường :
ü Trên trán là Cao minh bộ học đường, chủ về phần phú (giàu)
ü Giữa trán là Cao quảng bộ học đường, chủ về phần phúc
ü Ấn đường là Quang đại bộ học dường, chủ về phần quan
ü Mắt là Minh tú bộ học đường, chủ về phần quý (sang)
ü Tai là Thông minh bộ học đường, chủ về phần danh
ü Miệng Môi là Trung tín bộ học đường, chủ về phần lộc
ü Lưỡi là Quảng đức bộ học đường, chủ về phần đức
ü Lông mày là Ban duẫn bộ học đường, chủ về phần thọ (sống lâu).
1- Cao minh học đường
2- Cao quảng học đường
3- Lộc học dường
4- Ban duẫn học đường
5- Ban duẫn học dường
6- Quang đại học đường
7-Ngoại học đường
8- Thông minh học đường
9- Minh tú học đường
10- Quan học đường
11- Minh tú học đường
12- Quan học đường
13- Ngoại học đường
14- Thông minh học đường
15- Trung tín học đường
16- Nội học dường
17- Quảng đức học đường.
· Nói về năm hình
· Phàm con người ta thọ tinh ở thuỷ, bẩm khí ở hoả mà thành người. Tinh hợp lại rồi sau thần sinh ra, thần sinh ra rồi sau hình được toàn, vậy mới hay toàn ở ngoài đó có tướng kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ; có tướng chim bay, thú chạy.
· Hình kim chẳng hiềm vuông, hình mộc chẳng hiềm gầy ,hình thuỷ chẳng hiềm béo ; hình hoả chẳng hiềm nhọn; hình thổ chẳng hiềm đục.
ü Giống hình kim được tính kim: Cương nghị thâm trầm.
ü Giống hình mộc dược tính mộc: Của cải đầy đủ.
ü Giống hình thuỷ được tính thuỷ: Văn học thinh quý.
ü Giống hình hoả được tính hoả: Kiến cơ quả quyết.
ü Giống hình thổ được tính thổ: Của đầy rương, đầy kho.
· Cho nên người phong hậu nghiêm cẩn chẳng giàu thì sang; kẻ khinh bạc phù táo chẳng nghèo thì yểu. Như con gái thì khí tượng muốn cho hoà nhị; hình tạo muốn cho nghiêm chỉnh, người như vậy chẳng giàu thì sang.
· Người hình kim thanh nhỏ mà cứng cỏi, vuông ngắn mà ngay ngắn, hình ngắn gọi là bất túc, thịt cứng gọi là hữu thừa. Sách tướng nói rằng: "Bộ vị nên trung chính, ba đình lại vuông vuông, đó là cách người hành kim, tự nhiên có thinh danh dương dật".
· Người hình mộc ngang tàng mà gầy ốm, đúng đắn mà ngay thẳng, dài mà lộ cốt, đầu cao mà trán rô. Nếu xương nặng mà béo, lưng mình dẹp mỏng, chẳng phải là tướng hay của người hình mộc. Sách tướng nói rằng: "Cốt gầy hình xương xương, mình cao dong dỏng, mày Mắt trong như nước, phải biết tướng ấy về cảnh già được vinh quang".
· Người hình thuỷ khí bốc nổi, rộng lớn mà dày dặn, hình cúi mà trở xuống, là cái hình chân thật. Sách tướng nói rằng: "Mày thô và Mắt lớn, thành quách lại tròn trặn, đó gọi là tướng hình thuỷ, bình sinh có phúc tự nhiên".
· Người hình hoả trên nhỏ, dưới rộng, trên nhọn, dưới dầy, cái tính nóng gấp, Sắc đỏ bốc lên. Sách tướng nói rằng: "Hình mạo như lửa muốn cháy, dưới rộng, trên đầu nhọn, việc cử chỉ toàn không định chủ, bên má lại ít râu ria".
· Người hình thổ béo lớn trầm trẫm, vai cao mà lưng dày, hình như con rùa. Sách tướng nói rằng: "Đoan hậu và thâm trọng, vững chãi như núi lớn, cơ mưu khó lường được, tín nghĩa trọng ở đời".
6- Nói về hình 12 cung
12 cung :
- 1 cung Mệnh, là khoảng giữa đôi lông mày
2- cung Tài bạch, là sống Mũi
3- Cung Huynh đệ, là hai lông mày
4- Cung Điền trạch là hai Mắt
5- Cung Nam nữ, là dưới khoảng hai Mắt
6- Cung Nô bộc, là hai hàm
7- Cung Thê thiếp, là Ngư vĩ (hai mang cửa tai)
8- Cung Tật ách, là giữa Mũi
9- Cung Thiên di, là góc lông mày,
10- Cung Quan lộc, là chính giữa trán
11- Cung Phúc đức, là khoảng trên Thiên thương (khoảng bên trán) 12- Cung Tướng mạo, là toàn hình khuôn mặt.
CUNG MỆNH- Cung Mệnh ứng về vận mệnh, ngôi tại khoảng giữa đôi lông mày, khoảng trên Sơn căn. Hễ sáng sủa như tướng là người học vấn thông thái. Sơn căn phẳng đầy, chủ về phúc thọ. Thổ tinh chon von đứng thẳng và phù củng, chắc hẳn là người bần hàn. Hai lông mày giao tiếp nhau, thật là người hèn hạ. Gân thớ rối loạn, là người lưu lạc tha hương, lại khắc vợ. Trán hẹp, lông mày khô, ắt gặp vận truân chuyên phá của.
CUNG TÀI BẠCH - Mũi là Tài tinh, ứng về của cải, ngôi ở Thổ tú, sống Mũi thẳng như ống tre, đầu Mũi như trái mật treo, có của muôn rương ngàn đụn. Chon von ngay thẳng và cao dày, chắc được một đời tài vượng vĩnh viễn, phú quý mà trung chính chẳng lệch, chắc được phú quý lâu dài. Nhọn như mỏ chim ưng, như cuối núi, là tướng bần hàn phá của. Lỗ Mũi ngửa lên, là tướng không có lương để cách đêm. Tế trù, Táo thượng (hai bên cạnh lỗ Mũi) lép như không, ắt hẳn nhà không súc tích.
CUNG HUYNH ĐỆ - Cung Huynh đệ là ứng về anh em, ngôi tại hai lông mày, thuộc sao Kế đô. Lông mày dài quá Mắt, ba bốn anh em và không sát nhau, lông mày tốt mà thưa, anh em tự nhiên đoan chính; lông mày như mặt trăng non (vòng cong như mặt trăng đầu tháng), có tài đức hơn người. Nếu ngắn và thô, anh em phải ly biệt nhau, vòng lông mày lấp Mắt, anh em ắt ít, hai dạng lông mày, chắc có anh em khác mẹ; lông mày vàng mỏng và giao liền, tự mình phải thác nơi tha hương; lông mày xoáy quanh và kết lại, anh em khắc sát nhau như rắn với chuột.
1- Quan lộc
2- Phúc đức
3- Phúc đức
4- Mệnh môn
5- Huynh đệ
6- Thiên di
7- Huynh đệ
8- Thiên di
9- Điền trạch
10- Điền trạch
11- Tật ách
12- Tài bạch
13- Nam nữ
14- Thê thiếp
15- Nam nữ
16- Thê thiếp
17- Nô bộc
18- Nô bộc.
CUNG ĐIỀN TRẠCH - Điền trạch là ứng về ruộng nương, nhà cửa, ngôi ở hai Mắt. Mắt rất kỵ tia đỏ lấn con ngươi, năm xưa phá hết gia tài, tới già không lương nuôi Miệng; hai Mắt âm (Mắt hữu) dương (Mắt tả) cốt khô, chẳng giữ vườn ruộng; người Mắt lớn hay là Mắt nóng như lửa, quầng lạnh như băng, sẽ rồi tán hết gia tài. Còn như người Mắt như điểm sơn (con ngươi đen nhánh), cả đời sản nghiệp vinh thịnh; mày cao, Mắt phượng, thuế đặt ba huyện năm châu (nghĩa là giàu lắm).
CUNG NAM NỮ - Nam nữ là ứng về dường con cháu trai gái, ngôi ở phía dưới hai Mắt, nhằm vị lệ đường. Ba Dương (Thái dương, Trung dương và Thiếu dương) phẳng đầy, con cháu được phúc lộc vinh thịnh; tờ tợ như con tằm nằm, nên có dâu con thinh quý. Còn như lệ đường sâu hãm, chắc là trai gái vào duyên; nốt ruồi đem hay lằn đâm xế, khắc với con cháu tới già; Mắt him him như Miệng thổi lửa, ngồi mình phòng lan, nếu là trong đám người thường, khó được con cháu tống lão.
CUNG NÔ BỘC - Nô bộc là ứng về tôi mọi (đày tớ) ngôi ở Địa các, tiếp với thuỷ tinh. Người cằm tròn và đầy đặn, tướng có tôi mọi đứng hầu thành bày; hai vì sao Tả phụ, Hữu bật chầu lại, có thế nhất hô bá nặc (một tiếng gọi, trăm kẻ vâng); Miệng như hình chữ Tứ (vuông dẹp), có quyền gọi tụ hét tan. Còn như người địa các nhọn hớt, kẻ tôi mọi thụ ơn sâu mà trở ra oán hận; lằn nát và hãm, chẳng đủ tôi mọi mà sai; tường vách (vành Địa các) thấp nghiêng, làm ơn trở nên thù khích.
CUNG THÊ THIẾP - Cung Thê thiếp là ứng về đường vợ và nàng hầu, ngôi ở Ngữ vĩ, vào vị Gian môn. Quang nhuận không lằn, vợ trọn bốn đức (vợ hiền và đảm); dày dặn phẳng đầy, có vợ của cải đầy tủ; xương gò má xâm lên trời , nhân vợ được lộc. Còn như người nào Gian môn sâu hãm, thì làm rể mới hoài (cưới vợ mới luôn). Ngữ vĩ nhiều lằn, vợ phòng chết vì bệnh ác, Gian môn thâm xám, mình phải lìa vợ; nốt ruòi đen hay là có lằn xế, vợ có ngoại tình và lòng nhiều dâm dục.
CUNG TẬT ÁCH - Cung Tật ách là ứng về tật bệnh và tai ách, ngôi ở Sơn căn, vào phía dưới Ấn đường. Cao đầy và dày dặn là tướng phúc lộc vào cùng, liên tiếp Trượng tê, chủ về văn chương thông thái; màu da sáng sủa, chủ về năm phúc kiêm toàn; cao bằng Niêm thượng và Thọ thượng, là tướng sống lâu. Còn như người lằn ngấn thấp hãm, luôn năm bệnh ngấm tật ngầm; xương khô mà nhọn muộn xuống, khó khỏi cả đời thụ khổ; khí như khói mù, chắc phải tai ách quanh mình.
CUNG THIÊN DI - Thiện di là ứng về dời đổi chỗ ở, ngôi ở góc lông mày, gọi là Thiên dương, cao dày đầy đặn; màu tươi không có vẻ lo; ngôi Ngữ vĩ phẳng, đi đâu được người kính trọng cho tới già; khí xông lên vị Dịch mã, là tướng quý đi làm quan bốn phương. Còn như người góc trán thấp hãm, tới già khó tìm chỗ đỗ; lông mày liền giao tiếp, là tướng phá tổ lìa nhà; trời đất lệch xế, là tướng ở mười chỗ đổi chín lần. Những tướng sinh ra như vậy, nếu chẳng dời nhà cũng phải đổi mả.
CUNG QUAN LỘC - Quan lộc là ứng về việc quan, ngôi ở trung chính, trên hợp với Ly cung. Phục tê suốt lên cuối đầu, một đời chẳng tới cửa công. Dịch mã chầu lại, quan tông nhiễu tới mình; sáng sủa trong sách, là tướng hiển đạt hơn người. Còn người góc trán đường đường (cao và có góc), thường phạm tới việc quan; các thớ lằn ngấn vỡ nát, thường hay đem lại việc ngang, Mắt đỏ như Mắt cá chép, chắc phạm hình chết, tội đồ.
CUNG PHƯỚC ĐỨC - Phúc đức là ứng về phúc phận, ngôi ở Thiên thương, dắt liền xuống Địa các. Năm tinh (trán, Mũi, Miệng và hai tai) triều củng, phúc lộc dãy đầy. Thiên (Thiên đình) địa (Địa các) chầu nhau, đức hạnh toàn vẹn. Còn như người trán hẹp cằm tròn, vận cực khổ ngay từ lúc nhỏ; trán rộng cằm nhọn cảnh gian truân lại ở lúc già;mày cao, Mắt sếch, là tướng bình thường; mày đè (áp Mắt), tai bạt, không có phúc đức.
CUNG TƯỚNG MẠO - Tướng mạo là toàn hình khuôn mặt, ứng chung cả vận mệnh toàn thân. Năm nhạc đầy đặn, là người phú quý vinh hoa; ba đình đều nhau, là người suốt đời hiển đạt; năm nhạc triều cao, quan lộc vinh thăng; dáng đi, dáng ngồi oai nghiêm, là người tông trọng. Trán chủ vận đầu, Mũi chủ vận giữa, Địa khổ Thuỷ tinh chủ về vận cuối, nếu có nơi nào khắc hãm, chắc là vận đó phải bị hung ác.
7- Xem tướng lông mày
Lông mày như cái mày cửa vậy, làm lọng xanh cho hai con Mắt, làm nghi bảo cho một khuôn mặt, vả là màu vẻ của con Mắt, chủ về phân biện người hiền, kẻ ngu vậy. Cho nên lông mày quý về thanh và nhỏ, bằng và rộng, tốt và dài, là người tư tính thông minh. Còn như thô và rậm, ngịch và rối, ngắn và lừa là người tính khí hung ngạnh. Mày dài quá Mắt, là người giàu sang; mày ngắn chẳng che Mắt là người nghèo quẫn; cao lên là người khí cương; đứng sững và cứng là người khí hào đuôi mày rủ xuống là người tính hèn nhát; đầu mày giao nhau là người bần bạc và khắc hại vợ con; lông mày khởi lên như cái thoi là người hung ác và vận nhiều trở trệ; trong lông mày có nốt ruòi là người thông minh hiền hậu mà được sang quý; lông mày cao ở trong đầu là người đại quý; trong lông mày mọc lông trắng là người đa thọ; trên long mày nhiều thớ thẳng là người giàu sang; nhiều thớ ngang là người nghèo khổ; trên lông mày có chỗ khuyết là người nhiều kế gian; lông mày mỏng như không là người giảo quyệt mà hay nịnh bợ. Vậy cho nên lông mày cao vót và tốt, quyền lộc cao hậu; lông mày dài dủ, tuổi thọ lâu dài; lông mày nhuận trạch, cầu phú dễ được; mày giao thẳng phân, tuổi thọ chết yểu; mày như cung sừng, tính lành chẳng anh hùng; mày như trăng non, thông minh hơn người; lơ thư như sợi tơ, tham dâm mà không con; nuồn nuột như mày ngài (bướm tằm), tính nhiều háo Sắc; mày dài quá Mắt, trung trực có lộc; mày ngắn hơn Mắt, tâm tính cô độc; đầu mày giao lẫn, anh em chia nhà; lông mày tinh tế, chẳng hiền thì sang; góc mày vào tóc mai, là người thông minh tuấn nhã; mày có lông xoáy, anh em khắc nhau; lông mày rườm rà, gái nhiều, trai ít; lông mày cao thẳng, mình ở chức thanh; đầu mày lằn vỡ, thường gặp truân chuyên.
Mày quỹ - Là tướng người cầm lồng chẳng lành, giả nhân giả nghĩa, để hại ngầm người.
Mày vàng mỏng - Là tướng người trước giàu, sau nghèo tuổi già cùng khốn, thác tại tha hương.
Mày trăng nhọn - Là tướng người ngoài mặt nhu mì, trong lòng gian giảo, sau ắt làm sự ác bị hình ngục.
Mày La hán - Là tướng người được vợ hiền, nhưng không đẻ, sau cưới vợ nhỏ, có thể sinh được một con.
Mày lá liễu - Là tướng người có quí nhân phù hợp, có thể phát đạt, nhưng đường con cái chầy muộn.
Mày sư tử - Là tướng người trước nghèo, sau giàu khoảng tuổi lớn phát đạt, tới gia càng thịnh vượng.
Mày nhanh và thanh - Là tướng người anh em hoà mục, nhiều bầu bạn, có số vinh hoa.
Mày xoáy trôn ốc - Là tướng người làm tăng nhân (thầy chùa), võ sĩ thì tốt, người thường là xấu.
Mày tằm nằm - Là tướng người khéo nói năng, giỏi thù ứng, từ lúc tuổi nhỏ liền chịu người dùng.
Mày hổ - Là tướng người can đảm, cương cường, sống thọ, chẳng giàu ắt sang, nhưng ít anh em,
Mày ngắn gặt quá - Là tướng người có vợ hiền, con giỏi.
Mày thưa và tan - Là tướng người cả đời của dùng chẳng thừa dư dả, chẳng giàu mà cũng chẳng nghèo.
Mày chổi quét - Là tướng người anh em chẳng hoà, không có con nối đời, tuổi nghèo khốn.
Mày chữ Bát - Là tướng người tuổi già mất đôi bạn (vợ chồng), dùng con nuôi làm thừa tự.
Mày rồng - Là tướng người được quan cao, hiển danh ở đời, cha mẹ sang và sống thọ.
Mãy lưỡi gươm - Là tướng người năm sớm có thinh danh, khoảng giữa giàu sang, khoảng già càng tốt.
Mày tốt - Là tướng người sống thọ, trọng tín nghĩa, chẳng ăn lời.
Mày chữ nhất (ngang) - Là tướng người giàu sang sống thọ, sớm được thành danh, vợ chồng giai lão.
Mày trăng non - Là tướng người giàu sang và lộc tới anh em,
Mày chổi quét nhỏ - Là tướng người chẳng ở chung với anh em được.
Mày thanh tú - Là tướng người tư trời minh mẫn, tuổi nhỏ thành danh, anh em cũng hiển đạt.
Mày đứt cách - Là tướng người cả đời chìm nổi, lúc nghèo, lúc giàu, anh em vào duyên.
Mày giao nhau - Là tướng rất xấu mọi điều, tuôỉ già lại có tai vạn lao tù.
8- Xem tướng Mắt
Lớn như trời đất, nhờ mặt trời, mặt trăng để làm sáng.
Mặt trời, mặt trăng là tấm tướng của muôn vật, mà Mắt tức là mặt trời, mặt trăng của một thân người vậy.
Mắt tả là mặt trời, là tượng cha đó; Mắt hữu là mặt trăng, là tượng mẹ đó.
Lúc ngủ thì thần đỗ tại tâm, lúc thức thì thần nương tại Mắt, vậy Mắt là cung qua lại của thần đó, xem Mắt lành hay là dữ, có thể biết được thần đục hay là trong.
Mắt dài mà sâu và quang nhuận là tướng đại quí; Mắt như điểm sơn (con ngươi đen nhánh) là tướng thông minh, văn chương hàm súc chẳng lộ; loang loáng có ánh sáng là tướng giàu sang; Mắt nhỏ và sâu là tướng sống thọ và tính thâm hiểm tà tích;
Con ngươi nổi và lộ là tướng chết non; Mắt lớn mà lồi, tròn mà dữ, là tướng ít thọ; lồi dữ mà nhìn liếc, là tướng dâm đạo (ăn trộm);
Mắt lờ mờ mà nhằm lếch, là tướng người bất chính; sợi đỏ suốt con ngươi, là tướng chết về sự ác;
Mắt dê là tướng mồ côi mà ương ngạnh;
Mắt ngắn nhỏ là tướng ngu hèn; Mắt dương trừng là tướng tính nóng gấp; dưới Mắt như con tằm nằm là tướng sinh quý tử.
Đàn bà Mắt trắng phân minh, là người dung mạo trang trọng, dưới Mắt Sắc đỏ, lo về sự sinh sản có tai ách, nhìm trộm là tướng dâm đãng, thần định chẳng liếc, là tướng phúc toàn.
Đại khái Mắt chẳng nên ác, chỉ chẳng nên đỏ, tròng trắng chẳng nên nhiều, tròng đen chẳng nên ít,thế chẳng nên kiên, nhìn chẳng nên lếch, thần chẳng nên mỏi, ngó chẳng nên trở, tinh sáng chẳng nên trôi; hoặc tròn mà nhỏ, ngắn mà sâu, là tướng chẳng lành đó.
Khoảng giữa hai Mắt gọi là cung Tử tôn (con cháu), nêndày đầy, chẳng nên khuyết hãm.
Lời quyết rằng: Mắt tinh tú và dài, ắt gần đấng quân vương; Mắt như mình cá diếc, ắt hẳn nhà giàu; Mắt lớn, mặt sáng, nhiều tấn ruộng vườn; đầu Mắt phá ( vỡ, vỡ), gia tài tan hết;
Mắt lộ bốn bề trắng, binh thua chết trận;
Mắt như loan phượng, chắc hẳn quan cao;
Mắt có ba góc là người ắt ác;
Mắt ngắn, mày dài càng thêm nương ruộng;
Mắt như đất lồi, ắt hẳn chết yểu;
Mắt đỏ lấn con ngươi, việc quan chồng chất;
Mắt đỏ, ngươi vàng, ắt hẳn chết non;
Mắt sáng như điện, sang chẳng có ngàn;
Mắt dài một tấc, ắt giúp quân vương;
Mắt phượng, ngươi rồng, ắt ăn lộc trong;
Mắt dữ có oai, muôn người nương cậy;
Mắt như cung nằm, ắt hẳn gian hùng,
Mắt như Mắt dê, cốt nhục sát lẫn;
Mắt như Mắt ong, cô độc chết ác;
Mắt như gà sạch, chết ác chẳng sai;
Mắt như ngươi rắn, ương độc bị hình;
Đuôi Mắt dủ xuống, vợ chồng lìa nhau,
Đuôi Mắt chầu trời, phúc lộc dằng dặc.
Con gái Mắt dê bốn phía trắng, ắt có chồng ngoại vào nhà;
Mắt vàng suốt là người từ bi trung lương;
Đen trắng phân minh, con trai ắt được chầu vua, con gái có nết liêm trinh;
Mắt trắng dài và nhỏ, nghèo cùng khôn xiết;
Dưới Mắt bằng như chữ Nhất, làm việc rất phân minh;
Dưới Mắt lằn loạn thớ, đàn bà nhiều con cháu;
Dưới Mắt như tằm nừm, đủ gái lại ít trai;
Dưới Mắt sáng rối loè, ắt gian dâm vào độ;
Mắt hữu nhỏ, đàn bà sợ chồng;
Mắt tả nhỏ, đơn ông sợ vợ;
Mắt dài một tấc năm phân, có tài làm lại;
Mắt đỏ hồng, con ngươi như vàng là người bạc tình chẳng nhận họ hàng; tròng đen ít mà con ngươi trắng nhiều, chẳng bị tù tội, ắt hẳn nghèo nàn.
Mắt rồng - Là tướng giàu sang và được gặp gỡ đấng minh quân.
Mắt khỉ - Là tướng giàu sang.
Mắt voi - Là tướng giàu sang, sống thọ, cả đời yên vui.
Mắt sư tử - Là tướng chẳng tham, vả hay khoan hoà thương người.
Mắt trâu - Là tướng giàu lớn và sống thọ.
Mắt oan ương - Là tướng mặt đẹp mà vợ chồng hoà mục.
Mắt phượng ngủ - Là tướng có lạng dung người và ắt được giàu sang.
Mắt nhạn - Là tướng làm việc quan thành danh.
Mắt hình hạch - Là tướng người hoà khí tuổi già được phú quý vinh hoa.
Mắt hoa đào - Là tướng người cả đời vui vẻ, chẳng bị ưu khổ.
Mắt hạc - Là tướng công danh phú quý.
Mắt cá (lờ đờ) - Nếu xem xa, ngó gần, chẳng phân minh lắm, trong trăm ngày ắt chết.
Mắt lợn - Là tướng người hung bạo, nhưng khó khỏi tai vạ hình phạt.
Mắt chim linh (nhấp nháy) - Bất luận trai gái, đều là tướng người dâm loạn.
Mắt lang (chó sói) - Là tướng người nhiều tình dục và tham bỉ, keo kiệt
Mắt cò bợ - Là tướng người dẫu giàu nhiều, sau ắt nghèo chết.
Mắt hươu - Là tướng người cương cường, ít giao kết với người.
Mắt phượng - Là tướng người thông minh và nhiều trí thức, công nghiệp hơn người.
Mắt rùa - Là tướng người đủ ăn mặc và sống lâu, có phúc trạch tới con cháu.
Mắt chim thước - Là tướng người trung tín thành thật, tuổi trẻ phát đạt, tuổi già yên khang.
Mắt hổ - Là tướng người trầm trộng mà cương quả, nhưng còn cái gian nan.
Mắt chim công - Là tướng người hung ác, nhưng làm nên thinh danh dương hiển lâu dài.
Mắt phượng gọi - Là tướng người năm sớm nghèo hèn, khoảng giữa được quí nhân phù trợ.
Mắt phượng điềm - Là tướng người có tiếng văn chương dương dật bốn phương.
Mắt âm dương - Là tướng người lương thiện, nhiều phúc đức.
Mắt say rượu - Là tướng trai chết yểu, tướng gái tham dâm.
Mắt dê - Là tướng tuổi già xiêu lạc, chẳng đủ của ăn tiêu.
Mắt ngựa - Là tướng chẳng lợi vợ con, phải chạy vẫy đông tây, mưu sự ăn mặc.
Mắt rắn - Là tướng người lòng dạ rắn rết, chẳng kính mẹ cha.
Mắt chim loan - Là tướng người nói năng hoà mị.
Mắt con tê phục - Là tướng người phú quí thọ khảo.
Mắt vượn - Là tướng người hay nghi ngờ, mà không thành thật và ưa âm nhạc.
Mắt gấu - Là tướng người dữ tợn, mạnh dạn, nhưng tính ngu ngốc và hung ngạnh.
Mắt tôm - Là tướng người nhiều tài trí, nhưng không sống lâu.
Mắt én - Là tướng người cả đời lao khổ về đường ăn mặc.
Mắt mèo - Là tướng tài lực dẫu nhiều, nhưng rốt cuộc chẳng lập được thân ở đời.
Mắt cua - Là tướng người ngu ngốc và ngoan ngạnh, chẳng lập được thành nghiệp.
Mắt trích cô - Là tướng người một đời chẳng được giàu sang.
9- Xem tướng Mũi
Mũi là Trung nhạc (núi giữa), cái hình thuộc thổ, làm biểu suất cho một nếp mặt, là cái mành mống của con phế (phổi) đó. Cho nên phế hư (trống) thì Mũi thông, phế thật (đặc) thì Mũi tắc, xem Mũi thông hay là tắc, sẽ thấy phổi thật hay là hư.
Chuẩn đầu tròn, lỗ Mũi lộ, lại được hai lộ Lan đài, Đình uý ứng nhau, là tướng người giàu sang.
Hai bộ Niên thượng, Thọ thượng đều chủ về Mũi, cho nên chủ về tuổi thọ dài hay ngắn. Quang nhuận và nở lên, chẳng giàu hay sang thì cũng sống lâu; người nào Mũi điểm đen và đốt mỏng, chẳng nghèo hay hèn thì cũng chết yểu; sống Mũi cao và có sống là tướng thọ;
Mũi như trái mật treo mà thẳng như ống tre cắt, là tướng giàu sang; cứng có xương là tướng thọ.
Chuẩn đầu dày lớn, không hại với người.
Chuần đầu nhọn và nhỏ, là tướng người lạng nhỏ và nhiều kế gian, mọc nhiều nốt ruồi, là tướng vận rủi, mọc nhiều lằn ngang, là tướng bị thương về xe ngựa; có lằn thớ dọc, là tướng nuôi con người khác;
Sống Mũi tròn mà suốt đời Ấn đường là tướng người có vợ đẹp,
Mũi như ống cắt, là tướng ăn mặc phong bậu, lỗ ngửa lộ ra là tướng đói rét, chết non;
Mũi như mỏ chim ưng, là tướng tham lam, khoét tới óc tuỷ người ta; Mũi có ba khúc là tướng cô độc, phá cửa nhà;
Mũi có ba chỗ hóm, anh em hại nhau.
Chuẩn đầu tròn và thẳng là tướng được của ngoại phương ăn mặc. Chuẩn đầu nở lên là tướng phú quí vào địch.
Chuẩn đầu hơi đỏ, ắt phải chạy vẫy Đông Tây;
Mũi nghẹt lộ xương, một đời xiêu dạt đắm đuối.
Chuẩn đầu dều thịt ra, ham dâm không chán.
Chuẩn đầu tròn béo, đủ mặc, no ăn.
Chuẩn đầu nhọn mỏng, cô độc nghèo yếu;
Mũi cao ngang Thiên đình, nổi danh bốn biển,
Sống Mũi không xương, ắt phải chết non;
Mũi lộ thấy rường, chết nơi đất khác;
Đầu Mũi nhọn xế, tâm sự cong queo.
Chuẩn đầu thường muốn quang nhuận
Sơn căn chẳng nên gặt gãy.
Đầu Mũi chắp thẳng, phú quí vào cùng;
Sống Mũi cao nguy, anh em suy yếu;
Sống Mũi chẳng thằng, tính hay khi trá;
Lỗ Mũi ra ngoài, tính hay gièm pha;
Nốt ruồi trên Mũi, tật tại trọng âm;
Trên Mũi thớ ngang, ưu nguy mãi mãi; nếu là sáng lớn, giàu sang hoài hoài; trụ Mũi chẳng bằng, bỏ mất tính trời, trụ Mũi đơn bạc, tính người hèn ác;
Mũi như túi rút, tốt thịnh tới già,
Mũi như sư tử, tài đạt thông minh;
Mũi cao mà ngang, quan sang vinh thịnh;
Trên Mũi quang nhuận, phú quí đầy nhà;
Đầu Mũi ngắn nhỏ, chí khí hẹp nông;
Trụ Mũi dài rộng ắt nhiều tài năng
Mũi dày mà thẳng có con công hầu
Mũi có khuyết phá cô độc đói rét.
Mũi rồng - Là tướng quan sang cực phẩm.
Mũi hồ dương - Là tướng phú quí.
Mũi trái mật treo - Cũng là tướng tuổi lớn phú quí.
Mũi trâu - Là tướng thọ mệnh không dài, không ngắn, làm được nên giàu.
Mũi củ tỏi - Là tướng anh em chẳng hoà, tuổi già lập thành được gia nghiệp.
Mũi khỉ - Là tướng giàu sang mà gian trá trăm bề.
Mũi chó - Là tướng người vào lễ vào nghĩa, chỉ biết lấy của người, chứ chẳng biết cho người.
Mũi phản ngâm (có 3 vòng) - Là tướng không có vận may, nhiều sự lo lắng.
Mũi núi gươm - Là tướng anh em vào duyên và khắc với con, tuổi già cùng độc mà chết.
Mũi cuối núi đứng một mình - Là tướng bần tiện cô khổ.
Mũi bếp lộ - Là tướng thiếu ăn mặc, nhiều lao khổ, sau bị chết nơi đất khác.
Mũi hươu - Là tướng người tâm tính khoan hoà, ưa làm nhân nghĩa.
Mũi hổ - Là tướng phú quí.
Mũi sư tử - Cũng là tướng phú quí.
Mũi con tê phục - Là tướng làm quan tới chức tam công.
Mũi ống tre tiện - Là tướng có công danh mà phú quí.
Mũi túi đựng - Cũng là tướng công danh phú quí.
Mũi mỏ chim ưng - Là tướng người gian hiểm dị thường.
Mũi cá diếc - Là tướng không có thân thích, cùng khốn cả đời.
Mũi phục ngâm (có 3 khúc) - Cũng như Mũi phản ngâm.
Mũi lệch và lóm - Là tướng chẳng nghèo thì chết non.
Mũi xương sống lộ - Là tướng một đời dầu được yên ổn, cũng phải cô độc và nghèo cùng.
Mũi con tinh tinh - Là tướng lạng lớn và khí hào.
Mũi vượn - Là tướng người khinh khiêu nóng nảy, không có oai nghiêm, chẳng làm nên được việc lớn, nghèo khổ lao lực, chết nơi đất khác.
10- Xem tướng Miệng
Miệng là cái cửa nói, năng, cái đồ ăn uống, tạo hoá ra muôn vật quan hệ tại đó; lại là cửa ngoài của lòng, thưởng phạt ra tại đó, phải trái nhóm tại đó, đoạn hậu chẳng nói bậy, gọi là đức của Miệng; gièm chê hay nói càn, gọi là giặc của Miệng.
Vuông rộng có góc là tướng thọ và sang;
Hình như cung sừng, là tướng có quan lộc;
Bề ngang rộng mà dày là tướng giàu có phúc;
ngay mà chẳng lệch, dày mà chẳng mỏng, là tướng đủ ăn đủ mặc;
hình như chữ Tứ (vuông dẹp) là tướng phú túc;
nhọn mà lật, lệch mà mỏng, là tướng nghèo hèn;
chẳng nói mà Miệng động, lại như Miệng ngựa, là tướng chết đói;
Sắc tía đen là tướng vận hãm, nhiều sự trở trệ;
Miệng mở răng lộ, là tướng người không có cơ trí;
có nốt ruồi là tướng người hay ăn uống;
Miệng như ngậm son là tướng chẳng bị đói rét;
Miệng như một nhúm (3 ngón tay bốc) là tướng bần bạc;
Miệng như cánh tay khuỳnh, là tướng vào làm tướng văn, ra làm tướng võ;
Miệng rộng mà dày, là tướng ăn lộc muôn chung;
không có người mà nói một mình là tướng hèn như con chuột.
Môi là thành quách của Miệng, lưỡi là dao mác của Miệng, thành quách nên dày, dao mác nên bén (Sắc), dày thì chẳng hảm, bén thì chẳng nhụt là tướng hay đó.
Lưỡi lớn mà Miệng nhỏ, là tướng bần bạc chết non;
Miệng nhỏ mà lưỡi ngắn là tướng nghèo. Sắc Miệng nên đỏ, tiếng Miệng nên thanh,
lưỡi Miệng nên ngay, Môi Miệng nên dày.
Lời quyết rằng:
Miệng như rửa châu sa, ăn lộc vinh hoa;
Miệng như thoa hoàng đơn, chẳng chịu đói rét;Miệng như hòn son (đỏ), ắt là giàu sang;
Miệng như Môi trâu (dày), ắt là hiền đức.
Chẳng những đức Miệng, vả lại tính thuần. Miệng như cung sừng, ngôi tới tam công;
Miệng buông hai góc, ăn mặc tiêu điều;
Miệng chẳng thấy Môi, chủ có binh quyền;
góc Miệng bên cao bên thấp là người gian trá;
Miệng nhọn như Môi, là tướng ăn mày;
Miệng chẳng thấy Môi, oai trấn ba quân;
Miệng như túi rút, chết đói không lương;
Miệng như ốc co, thường vui hát mình (nghĩa là chẳng chơi với ai); Miệng phượng, Môi rồng, chẳng nên làm bạn, vì họ hay nói vào lý, thường mang thói xấu
Miệng như son đỏ chẳng gặp gian nan, nếu là con gái, cũng được chồng thương
Miệng rộng, Môi mỏng, lòng ưa ca nhạc, như những người ấy, thường không hung ác;
Miệng chưa nói đem Môi máy lên, lòng ưa dâm không chán; trong Miệng có nốt ruồi, hay được ăn uống.
Miệng chữ tứ - Là tướng người thông minh có tài học, vả giàu sang.
Miệng mặt trăng ngửa - Là tướng người hay văn chương mà thinh danh trọng.
Miệng trâu - Là tướng ăn mặc không thiếu, vả nhiều trí thức, mà phú quí khang ninh.
Miệng hổ - Là tướng người cả đời yên vui, chẳng sang lớn ắt giàu lớn.
Miệng lợn - Là tướng hay gièm pha người, dầu đắc chí, rồi cũng ắt bại.
Miệng lằn nhiễu - Là tướng người có thọ khảo cũng ắt là cô độc.
Miệng khỉ - Là tướng người bình sinh ăn mặc không thiếu, mà lại phú quí khang ninh.
Miệng cá diếc - Là tướng một đời ăn mặc chẳng đủ, xiêu bạt Đông Tây, rồi đến khốn cùng mà chết.
Miệng vuông - Là tướng người ắt hưởng phú quý vinh hoa.
Miệng vòng cung - Là tướng người cả đời phú quí.
Miệng rồng - Là tướng người có oai đức, sai khiến được người.
Miệng dê - Là tướng người ham ăn uống, mà lại người nghèo hèn bất hạnh.
Miệng thổi lửa - Là tướng ăn mặc chẳng đủ, dường sinh hoạt khốn nạn.
Miệng anh đào - Là tướng người tâm tình hoà sướng, tư chất thông minh và có duyên phận giàu sang.
Miệng thờn bơn - Là tướng nghèo hèn và chết yểu.
Miệng thuyền úp - Là tướng ăn mày cùng khổ một đời.
11- Xem tướng Nhân trung
Nhân trung là ngòi rạch của một thân người, ngòi rạch khai thông, thì đường nước chảy chẳng lấp; nếu nông hẹp chẳng sâu thì đường nước phải nghẽn. Nhân trung là cung Thọ mệnh của Nam nữ đó.
Nhân trung rộng hay là hẹp, dài hay ngắn, có thể đoán được trai hay gái, nhiều hay là ít, thọ mệnh dài hay là ngắn. Cho nên muốn dài mà chẳng muốn co, trong sâu, ngoài rộng và buông xuống, đều là tướng hay vậy.
Nhỏ và hẹp là tướng ăn mặc bức bách; đầy mà phẳng là tướng tai ách truân chuyên, trên hẹp, dưới rộng, là tướng nhiều con cháu; trên rộng, dưới hẹp, là tướng ít con cháu; trên, dưới đều hẹp, mà lòng giữa rộng, là tướng con cháu tật khổ mà khó thành đạt; trên, dưới thẳng mà sâu là tướng con cháu đầy nhà; trên, dưới phẳng mà nông là tướng con cháu chẳng thành.
Sâu mà dài là tướng sống lâu; nông mà ngắn là tướng chết yểu.
Nhân trung khuất khúc là tướng người vào tín;
Nhân trung ngay thẳng là tướng người trung nghĩa
ngay mà dủ xuống là giàu và thọ;
găn mà co lên là tướng hèn và yểu;
sáng như mảnh tre chẻ, là tướng ăn lộc hai ngàn hộc;
nhỏ như cây kim treo, là tướng tuyệt tự và bần cùng;
trên có nốt ruồi đen, là tướng nhiều con trai;
dưới có nốt ruồi đen là tướng nhiều con gái; giữa có nốt ruồi đen là tướng lấy vợ dễ, mà nuôi con khó
có hai nốt ruồi đen là tướng đẻ sinh đôi;
có thớ ngang là tướng tới già không con;
có thớ dựng là tướng phải nuôi con người khác;
có thớ dọc là tướng sinh con túc tật (tật liên miên lâu ngày);
nếu phẳng lỳ như không, là tướng cùng khổ, đến già tuyệt tự;
xế phía tả là tướng tổn cha
xế phía hữu là tướng tổn mẹ.
12- Xem tướng Môi
Môi là thành quách của Miệng, làm cửa cổng cho lưỡi, khi mở, khi đóng, vinh, nhục quan hệ tại đó. Cho nên Môi muốn dày mà chẳng muốn mỏng, muốn nở góc mà chẳng muốn co cạnh.
Sắc đỏ như thoa son, là tướng giàu có mà sang
Sắc xanh như nhuộm chàm, là tướng tai ách mà yểu;
Sắc tối đen là tướng cực khổ và chết về chứng ác,
Sắc tía sáng là tướng khoái lạc và đủ ăn đủ mặc;
Sắc trắng mà đẹp là tướng có vợ quý;
Sắc vàng mà hồng là tướng có con sang;
găn co là tướng chết non; mỏng yếu là tướng bần tiện;
Môi trên dài là tướng trước thương cha;
Môi dưới dài tướng trước thương mẹ;
Môi trên mỏng mà trắng, là tướng nói năng giảo trá;
Môi dưới mỏng mà trắng là tướng bần hàn lật đật;
trên dưới đều dày là tướng người trung hậu;
trên dưới đều dài là tướng người hèn hạ và hay nói quấy;
trên dưới chẳng che nhau là tướng bần hàn trộm cắp;
trên dưới xứng với nhau là tướng nói năng ngay thẳng.
Môi rồng là tướng giàu sang;
Môi dê là tướng nghèo hèn;
Môi nhọn và co là tướng nghèo nàn chết non;
Môi muộn xuống là tướng bần hàn cô độc;
Môi có lằn thớ là tướng nhiều con cháu;
Môi không lằn thớ là tướng ít con cháu;
Môi như gan gà (thâm) bần hàn tới già;
Môi như mực xanh (xám) chết đói đường xá;
Sắc Môi sáng hồng, tự nhiên phong phú
Sắc Môi đen lợt, chắc bị độc sát;
Môi bằng chẳng cựa là tướng chết đói
Môi khuyết mà hãm là tướng hèn hạ;
Môi dài, răng ngắn, thọ mệnh rất dài;
Môi mọc chẳng ngay, ngôn từ khó chắc.
13- Xem tướng lưỡi
Cái nghĩa lưỡi đó, trong đối đơn nguyên (bộ lòng) làm hiệu lệnh, ngoài đối với các máy làm chuông mõ, cho nên hay sinh ra lộ dịch (nước bọt), thì làm xả thể của thần; mật truyền chí lự thì làm thuyền lái của tâm, vì vậy then chốt tính mệnh, sự được, lỗi một đời có nơi uỷ thác, người xưa bởi đó bàn cái nơi ngay lệch, răn cái điều ăn nói càn bậy vậy. Cho nên cái hình lưới muốn được ngay mà bén, dài mà lớn là tướng hay hơn hết. Nếu hẹp mà dài là tướng người tàn tặc và dối trá; cộc (bằng đầu) mà ngắn là tướng người gian truân và lật đật; lớn mà mỏng là tướng người càn bậy, nhỏ mà nhọn là tướng người tham lam, lưỡi thè tới Mũi, ngôi liệt Vương Hầu; Mũi cứng như bàn tay, lộc tới Khanh Tướng; Sắc hồng như son là tướng sang; Sắc đen như mắm là tướng hèn; Sắc đỏ như máu là tướng giàu; Sắc trắng như tro là tướng nghèo; trên lưỡi có thớ thẳng, làm quan tới Khanh giám; trên lưỡi có lằn dọc, chức nhậm điện các; lằn lưỡi có thớ mà quấn quanh, là tướng rất sang; lưỡi tươi mà thổ đầy Miệng là tướng rất giàu; trên lưỡi có lằn gấm là tướng ra vào triều sảnh (làm quan); trên lưỡi có nốt ruồi là tướng ăn không nói dối; lưỡi thì như rắn là tướng độc hại; lưỡi đứt như xẻ là tướng rủi ro; chưa nói mà lưỡi trước tới, là tướng hay nói càn; chưa nói mà lưỡi liếm Môi là tướng nhiều dâm dật. Vậy cho nên lưỡi lớn Miệng nhỏ, nói chẳng trót lời, lưỡi nhỏ Miệng lớn, nói năng lém lỉnh; lưỡi nhỏ mà ngắn là tướng nghèo nàn; lưỡi lớn mà dài là tướng quan cả; nền lưỡi giao lằn là tướng sang quý; lưỡi không lằn thớ là tướng tầm thường. Nói tóm lại, lưỡi muốn hồng chẳng muốn trắng, muốn đỏ, chẳng muốn đen. Hình lưỡi muốn vuông, thế lưỡi muốn sâu.
14- Xem tướng răng
Nhóm tinh hoa của trăm cốt, làm dao mác của một Miệng, vận hoá muôn vật, để nuôi sáu phủ là răng đó. Cho nên răng phải nên lớn mà khít, dài mà thẳng, nhiều mà trắng là tướng tốt vậy. Vững chắc chặt khít là tướng sống thọ; quanh rối mọc chồng là tướng giảo hoạnh; lộ ra là tướng chết non, (thình lình mà chết); thưa hở là tướng bần bạc, ngắn khuyết là tướng hạ ngu; khô se là tướng hoạnh (ngang), yểu (chết non); nói chẳng hở răng là tướng giàu sang, cường tcố mà rặng rụng (rơi) là tướng ít tuổi thọ; 38 cái răng là tướng Vương Hầu, 36 cái răng là tướng triều quan, cự phú; 32 cái răng là tướng người phúc lộc bậc trung; 30 cái răng là người bình thường; 28 cái răng là người tướng rất đỗi nghèo hèn. Sắc sáng trắng là tướng người trăm mưu đúng cả trăm. Sắc vàng là tướng người ngàn cầu hư cả ngàn; như ngọc trắng là tướng cao quí, như bạc nướng là tướng thanh chức, như hột lựu là tướng phúc lộc, như Mũi gươm là tướng trung thọ, như gạo nếp là tướng cao thọ, như trái dâu là tướng mệnh đoản, trên rộng, dưới nhọn, như hàng răng cưa là tướng người tính thô mà số ăn thịt; trên nhọn, dưới rộng, như bầy sừng là tướng người tính bỉ (quê) mà số ăn rau, rằng rồng là tướng con cháu hiển đạt, răng trâu là tướng tự thân vinh hoa, răng chuột là tướng bần yểu, răng chó là tướng độc điên. Vì vậy răng như ngậm ngọc, thọ phúc lộc trời, răng như chá bạc, phú quí chẳng nghèo, trắng mà dài và khít, đường quan hanh thản, đen mà thưa vá, một đời tai nàn, thẳng dài một tấc, vinh qui vào ngần, so le chẳng bằng, cầm lòng khi trá.
15- Xem tướng tai
Tai suốt vào óc mà thông xuống lòng, là ty thuộc của con tâm (trái tim), là dinh hậu của con thận (bầu dục) vậy. Cho nên khí thận vượng thì tai trong mà thông, khí thận hư thì tai đục mà tối, vì vậy tiếng tăm với tính hạnh vẫn đi đôi với nhau đó. Dày dặn mà chắc, cao vót mà dài, đều là tướng thọ, luân (vòng trong) quách (vòng ngoài) phân minh là tướng thông minh dĩnh ngộ, dủ hột châu (giái tai muộn xuống), chầu mặt trời (tai ngửa lên), là tướng có của và sống lâu; tai dán vào thịt là tướng phú túc, trong tai mọc lông là tướng thọ; tai có nốt ruồi là tướng thông minh và sinh quý tử, cửa tai rộng là tướng trí thức rộng xa, hồng mà nhuận là tướng làm quan lớn, tai trắng là tướng có danh vọng, đỏ hay là đen là tương nghèo hèn, tai mỏng mà hướng về đường trước là tướng bán hết ruộng vườn; lật lại mà lệch nghiêng, là tướng không có nhà mà ở, bên lớn, bên nhỏ là tướng rủi ro thiệt hại, sáng sủa nhuận trạch là tướng thinh danh dương dật, bụi tro, thô tục và xém đen là tướng bần bạc ngu lỗ, cứng chắc như băng là tướng tới già không có sự phiền sầu; dài mà cao vót là tướng có lộc vị, dày mà tròn là tướng no ăn đủ mặc. Đại khái người sang hoặc có Mắt quý mà không có tai quý, người hèn hoặc có tai quý mà không có Mắt quý, người khéo xem tướng nên trước xem cái Sắc, sau xem cái hình là phải. Lời quyết rằng: "Tài như xách lên, tiếng dậy cõi đời, hai tai dủ xuống vai, quý chẳng xiết nói, tai trắng như mặt, tiếng mãn thiên hạ, tai tròn như con cờ là tướng thành gia lập nghiệp, tai đen như hoa rụng là tướng ly tổ phá gia, tai mỏng như giấy, chắc hẳn chết non; luân quách, hồng như bông đào, tính rất linh lung, tai như tai thỏ, nghèo nàn cùng quẫn, tai như tai chuột, nghèo hèn chết non, tai trở như bánh xe, tổ nghiệp bay như bụi, tai dủ như hột châu, ăn mặc có thừa, tai mỏng không rể, ắt ngắn tuổi đời, cửa tai rộng hoác, khoát đạt thông minh; tai có xương sẵn, thọ mệnh chẳng đủ, tai có xương tròn, chưa có tiền thừa; tai cao hơn Mắt, ăn lộc làm thầy, cao hơn my hai tấc, không bị nghèo khốn, tai cao luân quách, cũng được yên vui, tai có vòng dao, quan cao ngọ phẩm, cửa tai buông dày, phú quí dài lâu; cửa tai như gân, nhà nghèo vào chủ, tai có lông mao, phú quí sống thọ, vả không tai ương, tai như tai thú, yên lành ự nhiên, cửa ta rộng lớn, thông minh, của đủ; cửa tai mỏng nhỏ, mệnh ngắn, thiếu ăn.
Tai hình thổ - Là tướng phú quý thọ khảo,con cháu đầy nhà.
Tai hình kim - Là tướng giàu mà không con, tuổi già cô độc.
Tai hình thuỷ - Là tướng phú quý lớn.
Tai hình mộc - Là tướng thân thích vào duyên, của cải chẳng đủ, khốn khổ cả đời.
Tai hình hoả - Là tướng khoảng già không tai ách, càng thêm tuổi thọ.
Tai hổ - Là tướng sang mà có oai nghi, nhưng lòng thì gian hiểm bất trắc.
Tai thấp và lật lại - Là tướng tuổi nhỏ mồ côi cha mẹ, vả gia tài hao hết.
Tai dán óc - Là tướng giương danh ở đời, họ hàng nhiều sang, cả đời yên lạc.
Tai lừa (la) - Là tướng nghèo khốn, phá bại tới già.
Tai khỉ - Là tướng bạch thủ thành gia, khi bé làm nên sang, khoảng giữa làm nên giàu.
Tai quạt gió - Là tướng nhục tổ bại gia, lúc nhỏ yên lạc, khoảng giữa nghèo khốn, tuổi già cô độc.
Tai lông tên (như cái lông gài đốc tên nỏ) - Là tướng chẳng giữ được tổ nghiệp, dầu nhiều của cũng tan hết.
Tai lợn - Là tướng giàu sang một lúc, tuổi già có tai hại.
Tai dủ vai - Là tướng đại quý.
Tai hoa nở (bông trỗ) - Là tướng phá hết của nhà cự vạn, tuổi già nghèo khổ tới chết.
Tai chuột - Là tướng ăn trộm chẳng chừa, tuổi già bị chết rũ tù.
16- Xem tướng mặt
Bày linh vị của trăm bộ, thông thần lộ của năm phủ, suy thành tượng của ba tài, định đắc thất của một thân, là mặt đó. Cho nên năm núi (ngọ nhạc), bốn sông (tứ độc) muốn được chầu nhau; ba đình, mọi bộ muốn được đầy đặn. Mặt ngay, thần tịnh, khí hoà, đó là nền phú quí vậy; còn như vẹo xế chẳng ngay, nghiêng lệch khuyết hãm, màu vẻ tối rậm, khí mạo xú ác, đó là tướng bần tiện vậy. Vì vậy Sắc mặt trắng như đọng mỡ, đen như màu sơn, vàng như trái nướng đều là tướng đại phú quí, nếu Sắc mặt đỏ dữ như lửa là tướng mệnh đoản, màu lông lươm rươm, tối đục, khô ráo, không gió mà tợ như có bụi, là tướng nghèo và chết non, Sắc mặt giận biến ra xanh xám là tướng người đôcọ hại, mặt thành ba khuỷu là tướng người đàn ông khắc con mà nghèo, tướng đàn bà khắc chồng mà hèn. Mặt như trăng đầy, thanh tú mà thần thái chiếu qua người khác, gọi là mặt giáng sớm mơi, là tướng đàn ông làm nên Công Khanh Tướng Soái, tướng đàn bà làm nên Hậu phi, Phu nhân; Da mặt dày là tướng người tính thuần mà hiếu; da mặt mỏng là tướng người tính lanh mà nghèo, mình béo (béo), mặt ốm (gầy) là tướng người mệnh trường, tính chậm; mình ốm, mặt béo là tướng người mệnh đoản, tính cấp, mặt trắng, mình đen là tướng người tính dễ mà hèn; mặt đen, mình trắng là tướng người tính khó mà sang, mặt như trái dưa vàng là tướng vinh hoa phú quí, mặt như trái dưa xanh là tướng thánh triết hiền hoà.
Mặt tướng oai mãnh - Thần Sắc nghiêm túc, chẳng giận mà oai, người xem thấy tự nhiên sợ. Nhưng một đời chẳng bợ người, mà cũng chẳng khi người, được hưởng vinh hoa tới lúc già thác.
Mặt tướng trọng hậu - Thần Sắc đôn hậu, khi bằng muôn hộc, lạng như biển khơi, vả chẳng bị vật ngoiaì làm lầm là tướng người phúc lộc đó.
Mặt tướng thanh tú - Tinh thần tuấn nhã, như một nhành đơn quế, như phiến ngọc Côn sơn là tướng thánh hiền đó. Nhưng nếu thanh mà không có vẻ hậu thì là tướng bần hàn.
Mặt tướng cổ quái - Cốt lộ, my hàn là tướng khí tĩnh mà chẳng hèn. Nhưng tâm đảm tế tiểu, chẳng quen được khổ, nếu cổ mà không thành, thì gần với tục, là tướng dung lục.
Mặt tướng cô hàn - Khí cốt cô hàn, mặt dài, my gặt, cằm lén, não lệch, ngồi như đảo đồng, đi như cuốc đất, lại như lạc độc bên nước, như cò lùi trong mưa, là tướng một đời cô độc, lao khổ vào cùng.
Mặt tướng bạc nhược - Thể mạo bạc nhược, hình khinh, khí khiếp, Sắc hôn mà ám, thần lộ chẳng giấu, nhiều đổi nguy khổ, dầu có ăn có mặc cũng phải chết non.
Mặt tướng ngoan ác - Thể mạo hung ngoan, như hình rắn chuột, như trạng sài lang, đó là tướng bất hiếu bất trung, ưa làm sự hung ác.
Mặt tướng tục trược - Hình mạo hôn trược, như vật trong đám bụi dơ, là người tam chí thiển bạc, khí tượng thô tục, dầu có đủ ăn đủ mặc cũng phải chịu truân chuyên cực khổ suốt đời.
17- Xem tướng nốt ruồi
Các nơi thân thể người ta mà mọc ra các dấu, tục gọi là Nốt ruồi. Cao là Chí, phẳng là Điềm, xanh, vàng hoặc đỏ là Ban. Nốt ban chẳng nên mọc tại nơi mặt, cho nên hễ ai mặt nhiều ban đều chẳng phải là người lão thọ. Nốt ruồi lại có ẩn, hiển khác nhau: Tại nơi mặt là nốt ruồi hiển; tại nơi mình là nốt ruồi ẩn.
Trên nốt ruồi có lông là tướng tốt, nốt ruồi tại Thiên trung (chính giữa trán giáp chân tóc) là tướng chẳng được ở ngôi sang, vả trai hại cha mẹ, gái hại chồng, tại vành tai là tướng thọ, tại thuỳ châu (giái tai) là tướng hiếu; tại căn tai là tướng làm giặc; tại Sơn căn (sống Mũi, dưới Ấn đường) là tướng khắc hại, tại Niên, Thọ (sống Mũi, dưới Sơn căn) là tướng chết về đồ binh; tại cạnh Mũi là tướng nhiều tật bệnh mà chết. Tại trên Mắt là tướng cát (cát) lợi; tại đầu Mũi là tướng phải phòng hờ chết về đồ binh; tại sống Mũi là tướng vận mệnh truân chuyên, tại Nhân trung (Môi trên, ngay dưới đầu Mũi) là tướng phải đổi vợ, tại cạnh Miệng là tướng khó tụ tài, tại Môi trên là tướng hay được ăn uống; tại trên lưỡi là tướng hay nói bậy, tại dưới Môi là tướng hay phá của, tại gò má là tướng làm quan bị thất chức, tại Thừa tương (Môi dưới, ngay dưới Miệng) lalf tướng chết đuối dưới nước, tạo Cao quảng học đường (chính giữa trán, dưới Cao minh học đường) là tướng khắc hại cha mẹ; tại Sích dương (bên trán) là tướng bị chết nơi đất khách; tại Phụ giác (góc trán) là tướng chết về đồ binh; tại Biên địa (cạnh trán, giáp Phụ giác) là tướng thác tại phương ngoài, nếu ở núi rừng sẽ bị ác thú nó hại; tại Thấn môn, Kiếp lộ (dưới đuôi lông mày) là tướng chết về tên đạn; tại Thanh lộ (đuôi dưới lông mày, giáp tóc mai) là tướng chết nơi đất khác; tại Thái dương (cạnh Mũi ngang Ấn đường) là tướng vợ chồng tốt lành; tại Ngư vĩ (cửa tai, nơi cung Thê thiếp) là tướng khắc vợ, tại Gian môn (giữa trên Mắt) là tướng phải đổi vợ; tại Phu toạ (dưới cuống con Mắt, giáp Mũi ngang nơi NIên thượng) là tướng sát chồng; tại Thê toạ (tức Cấm phòng, dưới đuôi con Mắt) là tướng sát vợ; tại Kim quỹ (dưới con Mắt, giáp Cấm phòng) là tướng phá của; tạc các Học đường là tướng thất học; tại Mệnh môn (cửa tai, phía trên Ngư vĩ) là tướng có hoả ách (bị phỏng, bị cháy); tại Nô bộc (má, ngang mép) là tướng khắc đầy tớ; tại Phi trì (cạnh cằm, ngang Địa các) là tướng chết đuối; tại Đạo tắc (dưới đuôi con Mắt, cạnh Cấm phòng) là tướng gian, hay trộm cắp; tại Tế trù (má, ngang dưới lỗ Mũi) là tướng thiếu ăn; tại Tổ trạch (phía dưới cạnh mép) là tớưng phải dời nhà; tại Đại hải (gần cạnh nằm, giáp Châu xa) là tướng bị thuỷ tai (bị ngập lụt); tại Niện thượng (trên Thọ thượng, dưới Sơn căn) là tướng nghèo khốn; tại Địa các (cằm, dưới Thừa tương) là rướng ít ruộng đất; tại Tam dương (Thái dương, Trung dương, Thiếu dương, nơi trên con Mắt phía tả) là tướng tổn con trai; tại Tam âm (Thái âm, Trung âm, Thiếu âm, nơi trên con Mắt phía hữu) là tướng tổn con gái. Nốt ban tại Tước noãn (hột xẻ hay là trứng chim, tại nơi âm), con trai thì vợ con có nạn, mưu sự chẳng thành, con gái thì sát chồng, khắc con, chết non chẳng lành.
18- Xem tướng đầu
Đầu là ngôi tôn của một thân, bậc trưởng của trăm thể, nơi tụ hội của mọi khí dương, vị tông chủ của năm hành, ở cao mà tròn là tượng đức của trời đó. Xương muốn cho nở mà khởi lên, muốn cho cao mà lồi lên; trán muốn cho rộng, ngắn thì muốn cho dày, dài thì muốn cho vuông.
Đỉnh (cuối) đầu lồi lên là tướng cao quí, lóm xuống là tướng chết non, da đầu mỏng là tướng nghèo hèn, đầu có sừng thịt là tướng đại quí, lép phía tả là tướng tổn cha, lép phía hữu là tướng tổn mẹ. Sau tai có xương, gọi là thọ cốt, khởi lên là tướng sống lâu, khuyết hãm là tướng chết non. Huyệt Thái dương có xương, gọi là cốt Phù tang, lại phía trên hai tai có xương, gọi là cốt Ngọc lâu, đều là tướng phú quý. Khi đi thường lắc đầu, khi ngồi thường cúi đầu, đều là tướng bần tiện.
19- Xem tướng tóc
Tóc là khí thừa của huyết vậy, cái vận mệnh phú quý bần tiện, cát, hung, hoạ, phúc của một đời người ta có thể lấy đó mà bói ra được:
Đàn bà tóc dài bỏ xuống đất là tướng nghèo hèn, mà hậu vận không hay; đàn ông tóc dài bỏ xuống đất là tướng nghèo hèn, mà chẳng được yên dật, tóc thô và cứng là tướng khắc sát, tóc mềm như tơ là tướng vợ chồng ân ái nhau lắm, tóc vàng là tướng nghèo hèn, nếu là con gái thì lại đa dâm, tóc sém là tướng nghèo khốn tới già. Con nít tóc mau (nhặt) là tướng hay ương ngạnh; tóc như cánh tay (canh chỏ) là tướng người tính ngu; tóc hói (trọc) mà Sắc sẫm, là tướng có vận may; tuổi nhỏ rụng tóc, là tướng không con, tuổi già tóc đen, là tướng sống thọ, nửa đen, nửa trắng cũng là tướng sống thọ, đàn bà tuổi già chẳng hói, cũng là tướng sống thọ; tuổi trẻ tóc bạc là tướng sớm mất cha mẹ; con gái tóc sớm hói là tướng khắc chồng và nhiều bề tân khổ.
20- Xem tướng râu
Một vật râu có thế phân người sang, kẻ hèn, định vận hay, vận dở được. Đại phàm người nào Nhân trung không có râu, là tướng thường bị người ta gièm pha, không có công nghiệp. Người làm quan mà râu rậm, thì lộc vị khó giữ. Người đi buôn râu thưa mà nhuận trạch, thì nên phát tài lớn, râu phất tả phất hữu là tướng sợ vợ, râu mở như cái thoa hay là như đường chẻ là tướng vận hãm; râu chia như đuôi én là tướng tuổi già buồn rầu. Mặt hồng, râu đỏ, là tướng nhân làm quan mà mất của, râu khô, mặt lạnh, là tướng nhân hoả tai mà phá sản; râu rậm, mày rậm, có nốt ruồi đen là tướng bị thuỷ ách (bị lụt hay chết đuối); râu vàng, mặt vàng có gân hồng là tướng bị hoả tai (chát nhà hay là chết cháy); râu non mà thanh nhuận là tướng làm quan ắt hanh thản, ở kẻ dân cũng có hậu phúc.
21- Xem tướng trán
Trán là Hoả tinh, các vị Thiên trung, Thiên đình, Tư không đều tại nơi đó, là cái toà quý, tiện vậy. Cốt muốn cho đường hoàng mà khởi lên, cao vót mà rộng ra. Năm trụ châu vào đỉnh (chỏm) đầu, là tướng quí làm Thiên tử. Bề cao dựng như bách vách đứng, bề rộng khum như lá gan úp, sáng mà rộng, vuông mà dài là tướng quý và thọ đó; lệch phía tả thì tổn cha, lệch phía hữu thì tổn mẹ.
Có những hình lằn như sau này:
1- Lằn đó là tướng người thông minh và mọi sự cát lợi.
2- Lằn đó là tớng người nhiều bề lao khổ, mà thường bị người ta ghét.
3- Lằn đó là tướng người sau này sẽ có sự hy vọng (trông có thế được hay).
4- Lằn đó là tướng người sau này sẽ có sự nghiệp ra đời.
5- Lằn đó là tướng người ắt có tai ách đao binh.
6- Lằn đó là tướng người phát đạt thêm phúc thêm lộc.
7- Lằn đó là tướng người dầu có quyền thế, mà khó được giàu sang.
8- Lằn đó là tướng đàn ông không vợ, đàn bà thì khắc chồng.
22- Xem tướng gò má
Hai gò má là hai hòn núi (Đông nhạc, Tây nhạc) là để giúp Thổ tinh (Mũi) mà hành vận vậy, không có gò má thì vận giữa chẳng phát đạt, dầu có Mũi cũng không có cái gì giúp, ắt phải trong 2 gò má có thịt cao vót lên vậy. Xương Mũi có sống cột nở cao, lỗ Mũi chẳng lộ, đầu Mũi có thịt, tức là được xứng nhau. Kỵ lộ xương, kỵ phá vỡ (vỡ), kỵ nhọn đầu, kỵ lật lại, kỵ ủng thũng, kỵ thấp, kỵ đen, kỵ quấn quýt, kỵ bên cao bên thấp, lệ đường (dòng nước Mắt) chảy tan. Gò má cao thì làm việc có quyền; gò má thấp thì làm việc du di; không có thịt bọc thì là người tính ngang trái, có thịt bọc thì là người lòng công chính; lộ quá thì khắc saá (đàn ông khắc sát vợ con, đàn bà khắc sát chồng con); phá vỡ thì không thọ; lật lại thì là người cường ngạnh, ủng thũng hay là tối đen thì bị hình (chết bị hình phạt) kiếp (bị cướp), lộ xương thì là người háo dõng làm quấy, lóm thấp thì không có quyền, bên cao, bên thấp thì là người tính tình chẳng định; quấn quýt thì làm việc lẫn bậy, đó là đại lược xem tướng gò má vậy.
23- Xem tướng cổ
Cổ là thiên trụ (cột trời), trên hứng đầu chốc, dưới suốt một thân, nên phân hình cuộc để định dài, ngắn; để phối béo (béo) gầy (ốm). Cổ người gầy nên dài, kỵ ngắn, ngắn thì hèn và trước sau 30 tuổi phải chết; cổ người béo nên ngắn, kỵ dài, dài thì nghèo và khó sống qua 49 tuổi. Duy cổ đàn bà thì khác, hễ dài và tròn là tốt. Phàm cổ kỵ gân lộ, gân lộ thì tính dữ, kỵ họng lộ, họng lộ thì tính gấp (nóng); kỵ gân kết họng, kỵ hơi phù động (hơi thở phập phều), kỵ lộ xương, kỵ động khí, bốn cái đó đều là tướng bần cùng, người gầy gân kết họng thì chẳng qua cùng khốn mà thôi, chứ người béo mà gân kết họng, thì phải chết nơi đất khách. Sắc đen phần nhiều là người hèn, Sắc trắng phần nhiều là người sang, cổ tròn và nhuận là người sang giàu kiêm toàn, cổ tròn, da dày, lại có lằn lần lớp, chắc là người thông minh tuấn tú, hai vai và hai lưng châu lại phò lấy cổ là tướng bạch ốc phát Công Khanh, gầy quắt là tướng nghèo hèn; nghiêng yếu là tướng chết non; khoẻ cứng là tướng sống lâu, sau cổ không thịt là tướng bần tiện, cổ có thừa da là tướng hiển vinh. Đầu lệch là cổ không lực, lo về thọ ngắn, đầu ngay là cổ có thần, chắc có phúc dài, đầu lớn mà cổ nhỏ, hay là đầu nhỏ mà cổ lớn, đều là tướng không thọ. Lằn lần lớp như tràng bông quấn cổ là tướng thanh bần mà cao thọ và một đời không có điềm xấu, có nốt ban lẫn lộn là tướng người thô bỉ mà bần hàn.
24- Xem tướng mình
Mình có ba đình: Từ đấu tới rốn là thượng đình, từ rốn cho tới gối là trung đình, từ gối tới chân là hạ đình. Dài, ngắn sánh nhau, nên đều đặn xứng hợp. Thương đình dài là tướng người một đời yên dật (yên lành thong thả); hạ đình dài là tướng người một đời lao lực (khó nhọc vất vả).
Đến như toàn hình thân thể, thì người hình Mộc nên gầy (ốm) dài, chẳng lộ gân xương, người hình Thổ nên trang trọng, khuôn lưng dầy, eo lưng tròn, người hình Kim nên da trắng, thịt nhuận, da tươi, người hình hoả nên gầy cứng, lộ xương khởi góc, người hình Thuỷ nên béo mạp, da mát, ũng thũng. Cái màu da thì người năm hình đều nên trắng, nên vàng, chẳng nên đen, chẳng nên tối. Cái bụng nên phẳng và rộng, hẹp và quắt thì là người lạng nông, thức nhỏ. Cái vú nên lớn, Sắc nên hồng, nên đen, như vậy thì là người sang mà nhiều con, chẳng nên trắng, chẳng nên vỡ (vỡ), chẳng nên nhiều lòng, lòng nhiều thì nhiều con lại khắc. Khoang trái tim nên phẳng và đầy, chẳng nên lóm xuống, chẳng nên đột lên, chẳng nên nhọn. Rốn nên sâu, nên có vành. Khuôn lưng nên dày, nên nở, chẳng nên lộ cốt. Hãm thì không thọ, lộ cốt thì bệnh khổ - Eo lưng nên phẳng, nên tròn, chẳng nên gẫy, chẳng nên nhỏ. Gãy thì không thọ, nhỏ thì đa dâm. Gót nên xương, thịt bình quân. Về (đùi) nên dài, ngắn hợp độ. Gối nên tròn, mà chẳng nên gót chẳng nên lộ gân, bàn gót chẳng nên không lằn. Lông chân nên nhuyển (mềm), nên sáng, thịt đít nên béo, nên dày. Âm mao nên ít, cốc đạo (lỗ đít) nên có lông. Dương vật nên nhỏ - Âm nang nên co rút. Tiểu tiện nên tán. Nách (lét) nên thưm, chẳng nên hôi như mùi cáo.
25- Xem tướng thịt
Thịt là cái để sinh ra huyết, mà chứa lấy xương, cái tượng như đất sinh ra muôn vật mà thành cho muôn vật đó vậy. Người béo (béo) chẳng nên cho có thừa, người ốm (gầy) chẳng nên cho chẳng đủ, có thừa thì âm thẳng hơn dương, chẳng đủ thì dương thắng hơn âm; âm, dương thắng nhau, gọi là tướng lệch một bên. Thịt nên cứng mà chắc, thẳng mà vượt lên. Thịt chẳng nên ở trong xương, ở trong xương là âm chẳng đủ, thịt chẳng nên sinh ngoài xương, sinh ngoài xương là âm có thừa, cho nên nói rằng: "Người béo thì khí đoản, ngựa béo thì khí đen". Vì lẽ đó mà thịt chẳng nên nhiều, xương chẳng nên ít vậy. Người xảy béo khí hen là triệu mau hết. Thịt chẳng nên ngang, ngang thì tính cương mà nghiêng, thịt chẳng nên hoãn, hoãn thì tính nhu mà trệ. Người béo chẳng nên cho lằn loạn lộ ra, lằn loạn lộ ra đầy là điềm gần chết đó. Thịt nên thưm mà ấm, Sắc nên trắng mà nhuận, da nên nhỏ là hượt, đều là chất tốt vậy. Sắc tối mà khô, da đen mà hôi, thịt nhiều như cục đất chẳng phải là tướng lành vậy. Còn như thần chẳng xứng nhành (chân tay) cội (mình), gân chẳng bó được xương, thịt chẳng ở trong thể, da chẳng bọc được thịt là điềm mau chết đó.
26- Xem tướng xương
Đốt xương là tượng kim thạch, nên cao mà chẳng nên ngang, nên tròn mà chẳng nên thô. Người ốm chẳng nên lộ xương, vì thịt chẳng phụ xương mà xương lộ ra, tức là người nhiều hoạn nạn, có tai vạ đó. Người béo chẳng nên lộ thịt, vì người trầm trệ chẳng nên thỉt đầy, đầy thì khó vận động, tức là tướng người chết đó. Xương với thịt phải xứng nhau, khí với huyết phải ứng nhau, người xương lạnh mà thịt co, chẳng nghèo thì yểu.
Phía tả Nhật giác, phía hữu Nguyệt giác (hai bên trán, có xương khởi thẳng lên là xương Kim thành, là tướng quan tới Công Khanh. Ấn đường có xương lên tới Thiên đình, gọi là xương Thiên tính, do Thiên đình suốt lên chỏm đầu, gọi là xương Phục tê, cũng là tướng quan tới Công Khanh. Song dầu có cái xương đó, cũng còn phải cái Sắc da cho xứng nhau, mới thành được cái khí độ, chứ nếu vị chẳng xứng, thì dầu giầu sang cũng chẳng được bền. Trên nơi mặt có xương đột lên, tên là xương gò má (quyền cốt), chủ về quyền thế, xương gò má liền nhau vào tai, tên là xương Ngọc lương, chủ về thọ khảo. Từ cánh tay (trên vai) tới nách là Long cốt, tượng vua, nên dài mà lớn, từ nách tới sườn là Hổ cốt, tượng thần nên ngắn mà nhỏ. Xương nên cao mà thư, tròn mà cứng, thẳng mà ứng nhau, đốt xương ghịt mà chẳng thô, đều là tướng kiên thật vậy. Xương gò má vào tóc mai tên là xương Dịch mã, trên Mắt tả là xương Nhật giác, trên Mắt hữu là xương Nguyệt giác, xương tay với tai là xương Tướng quân, quanh tròn như mặt trời gọi là xương Long giác, ngoài hai mang tai là xương Cự ngao, chính giữa hai bên trán là xương Long cốt. Lại nói rằng: Xương chẳng vót lên vả chẳng lộ ra, lại nên tròn và thanh tú. Xương là dương, thịt là âm, âm chẳng nhiều thì dương chẳng phụ. Nếu được xương thịt đều nhau, tuổi nhỏ chẳng sang, thì cả đời cũng giàu. Xương vót lên là tướng chết non, xương lộ ra là tướng không thành lập, xương mềm yếu là tướng thọ mà không vui, xương ngang là tướng xấu, xương nhẹ là tướng nghèo hèn, xương tục là tướng ngu trược, xương lạnh là tướng bần lạc, xương tròn trặn là tướng có phúc, xương cô đơn là tướng vào thân (không thân thích).
Lại nói rằng: Xương hình Mộc, gầy mà Sắc xanh đen, hai đầu thô lớn là tướng nhiều sự cùng ách, xương hình Thuỷ hai đầu nhọn giàu sang chẳng xiết nói, xương hình Hoả hai đầu thô, không có đức mà hèn tôi mọi (đầy tớ), xương hình Thổ lớn mà da thô và dày, con nhiều là lại giàu, thịt xương rắn cứng, thọ mà chẳng vui. Hoặc người có xương mọc quanh góc đầu là tướng tuổi già được hưởng phúc loọc, hoặc mọc quanh đầu trán là tướng tuổi già rất giàu vậy.
27- Xem tướng lưng và ngực
Lưng và ngực hợp hai đạo âm, dương, chẳng nên chẳng định phẳng, cao. Lưng hãm thành hố, ngực lộ xương lên, là tướng người không lương để cách đêm. Đại khái lưng lên cao, mà ngực nên phẳng, vai nên rộng mà chẳng nên cao chon von, hễ chon von là tướng nghèo đó. Lưng cao, ngực rộng là tướng no ăn, đủ mặc, phú quý yên vinh. Phàm ngực nên mở rộng, chẳng nên hẹp nhỏ. Trên ngực có lông là kỵ, lông nhuyễn thì còn khá. Trái tim sâu hãm là người tâm sự gian tà, lưng nếu thành hố, chẳng những một đời nghèo đói và lại ít được sống lâu. Người hình Thuỷ, hình Thổ lưng nên cao, hình Mộc lưng nên phẳng. Câu tục nói rằng: "Tốt mặt chẳng bằng tốt mình". Ngực và lưng tức là chủ của một mình đó. Dương không, âm lộ, cũng đồng một đường, lưng là âm, ngực là dương, dương chẳng nên không, âm chẳng nên lộ.
28- Xem tướng vú
Vú là mành mống của đời sau, rất nên đen, lớn, vuông, tròn, rắn, cứng. Phàm vú chẳng nên nhỏ, bốn hình Kim, Mộc, Thuỷ, Thổ, nên da dầy, nếu da mỏng thì vú ắt mỏng, da chắc thì vú ắt chắc. Đầu vú chầu lên, nuôi con ắt thành, đầu vú cúi xuống, nuôi con ắt khó. Đầu vú tròn cứng, sinh con giàu, đầu vú vuông cứng, sinh con sang. Vú vỡ (vỡ) và nhỏ, nuôi con khó nên, vú Sắc trắng chẳng dậy, nuôi con khó được.
Đàn bà cũng nên vú đen và lớn là tốt, nhỏ thì con ít, lớn thì con nhiều. Vú đen và vuông hay tròn thì con giàu sang, vú trắng và thấp hay lệch thì con nghèo hèn.
29- Xem tướng rốn và bụng
Rốn và bụng trong bọc năm tạng, ngoài thông năm thể, rốn nên sâu, bụng nên dày, da nên chắc, xương nên ngay. Rốn gần trên là tướng người thương trí, rốn gần dưới là tướng người hạ ngu, rốn sâu là tướng người phúc lộc, rốn cạn là tướng người bần cùng, rốn khoan đại rộng vành, tiếng vang ngàn dặm, trong rốn nốt ruồi đen dủ xuống bụng, làm nên quan sang, rốn nhỏ và phẳng, lao khổ hèn hạ. Liễu Trang tiên sinh nói rằng: "Bụng buông xuống dưới, rùn gần lên trên, tự nhiên có phúc lộc; bụng gần lên treê, rốn cuối xuống dưới, cô cùng tới già". Phàm rốn nên trên nhỏ, dưới lớn, rất kỵ trên lớn, dưới nhỏ. Lại nói rằng: "Bụng là bề ngoài của rốn, rất nên rộng lớn, rất hiềm hẹp nhỏ".
Phàm đàn bà, rốn là cội rễ của con, vú là mầm nhánh của con, khi có nghén con tại trong bụng, rốn ắt hồng, đen, nghén con gái thì ba, bốn tháng rốn ắt lồi lên, nếu tám chín tháng mới lồi thì là nghén con trai. Đàn bà bất luận béo hay là ốm, hễ rốn sâu được một phân thì có một con, sâu dược năm phân thì có năm con. Rốn phải lớn mới tốt, nhỏ thì khó có con, dầu sinh cũng chẳng còn. Rốn đỏ sinh con một đai ngọc, lây đen sinh con một đai vàng.
Trong rốn mọc lông, sinh con ắt tuấn tú. Da bụng khoan thư rộng lớn, ắt có nhiều con, hễ rốn nhỏi, eo lệch, bụng nhỏ, da mỏng, da gấp, dầu có tướng mặt tốt cũng là đàn bà không con vậy.
30- Xem tướng đít
Đít là nền hậu thành,có thể xem biết vận thịnh, suy: Tuổi nhỏ không đít, mọi việc chẳng thành, ruộng vườn khó giữ, phá tổ ly tông. Lúc già không đít, khốn khổ tân cần, vợ chết, con mất, bôn tẩu phong trần. Người gầy không đít, học nhiều, thành ít, một đời không vận tốt, 49 tuổi sẽ về đường âm; người béo không đít, đánh nồi, rửa chạu (làm việc nô lệ), không vợ không con, bần hàn cô độc. Cho nên đít nên nở rộng, nở lớn, chẳng nên nhọn eo. Sách nói rằng: "Ngực lốm, đít eo, cha con chẳng hoà, đàn bà phạm tướng đó là gái hung ác".
Đàn bà eo lưng nhỏ, bàn đít nhọn, rốn lại cạn, chỉ làm đứa ở con hầu, giữ phận cô đơn cùng khổ, đầu lỗ lại trắng, một đời cô độc đã đành. Cho nên sách nói rằng: "Không có đàn bà sang mà đít nhọn bao giờ".
31- Xem tướng âm nang và dương vật
Âm nang và dương vật tức là cội rễ của tính mệnh. Phàm âm nang nên đen, lằn nên nhỏ và chắc là quý, chẳng nên muộn xuống. Ấm như lửa là tướng sinh con quý, lạnh như băng là tướng ít con.
Dương vật là nghĩa Linh quy của ông vua gọi là Ngọc hành (nhánh ngọc), của người thường gọi là Quy đầu (đầu rùa). Quy nên nhỏ trắng và cứng là tướng quý, nếu lớn, dài, đen yếu là tướng hèn. Lớn thì chiêu kẻ hung, ắt hèn, nhỏ mà nhũn đẹp thì ưa người hiền, ắt sang. Phàm quy đầu nhỏ là vợ tốt, con tốt, lớn là không tốt.
32- Xem tướng cốc đạo
Cốc đạo (lỗ đít) là cửa sau của năm tạng, cốc đạo nên hai mông đít giáp nhau mà chẳng lộ, nếu lộ thì là tướng mười phần nghèo hèn, vả lại chết non. Có lông là tốt, không lông ắt hèn. Đi tiêu chậm là tốt, mau thì nghèo. Phẩn nhỏ là dài, lại như đai kép, đều là tướng phú quý vậy. Cốc đạo không lông, chắc nghèo tới già. Tuổi trẻ lộ ra, ắt bị hình phạt. Phải hay rằng cốc đạo là đồ thủ dụng kỳ diệu, tế vi là sâu kín là người sang.
33- Xem tướng eo lưng
Eo lưng là hai huyệt thận mệnh (hai bầu dục) là cội rễ của một thân người, hễ rộng, thẳng và cứng là tốt, người béo nên rộng, người ốm nên tròn và nên cứng. Hai Mắt eo là hai huyệt thận mệnh nên có thịt da dày mới hưởng tuổi thọ, nếu huyệt thận mệnh hãm và da khô là tướng chết yểu. Đại khái eo lưng lệch, nhỏ, mỏng, gãy và ốm, đều là tướng yểu và nghèo.
Đàn bà eo lưng lớn là người có phúc, nếu nhỏ và lệch thì nhiều con lại càng hèn nhiều.
34- Bàn về tứ chi
Hai tay, hai chân gọi là bốn chi, để tượng bốn mùa, thêm đầu vào nữa, gọi là năm thể, để tượng năm hành. Cho nên bốn mùa chẳng điều hoà, thì muôn vật khuyết thất; bốn chi chẳng ngay ngắn, thì một đời khốn khổ, năm hành chẳng lợi, thì muôn vật chẳng sinh, năm thể chẳng xứng thì một đời nghèo hèn. Vì vậy chân tay cũng tượng nhành cội của cây vậy, nhiều đốt thì gọi là cây thẳng tốt. Nhưng chân tay phải nhuyển mà hoạt tịnh, gân xương chẳng lộ, phải trắng như ngọc, thẳng như cây, trơn như rêu, nhuyễn như bông là tướng người phú quí đỏ, hoặc cứng mà thô lớn gân ràng, xương lộ, thô như đất, cứng như đá, cong (vạy) như củi, thịt như bệnh thũng là tướng người bần tiện đó.
36- Xem tướng tay
Tay là đồ dùng để cầm giữ buông bắt, cái tình muốn để lựa chọn lấy bỏ. Cho nên hễ ai tay nhỏ và dài là người tính khoan hoà mà hay cho của người, ai tay ngắn và dày là người tính tham bỉ mà hay lấy của người, tay buông quá gối là người anh hào ở thế gian; tay chẳng quá eo là người bần tiện trót một kiếp, mình nhỏ mà tay lớn là người phúc lộc, mình lớn mà tay nhỏ là người thanh bần, tay thưm và ấm là người thanh hoa, tay hôi và xánh, là người thô trược, ngón tay mềm nhỏ và dài là người thông tuấn, ngón tay ngắn cộc và trọc là người ngu ngoan, ngón tay mềm mà khít là người có của súc tích, ngón tay cứng và thưa là người phá bại gia tài, ngón tay như búp măng non, là người thanh quý, ngón tay như cái dùi vỡ là người ngu ngoan, ngón tay nở như củ hành chẻ là người ăn lộc, ngón tay thô như đốt tre, là người nghèo hèn; tay mỏng cứng như chân gà là người vào trí mà nghèo, tay cầm cứng như móng lợn là người ngu lỗ mà hèn, tay nhuyễn trơn như túi gấm, là người rất giàu; da tay liền như nhưn ngỗng là người rất sang - bàn tay dài mà dày, là người sang; bàn tay ngắn mà mỏng là người hèn, bàn tay cứng mà tròn là người ngu, bàn tay nhuyễn mà vuông là người trí; bốn bờ dày lên mà giữa lóm xuống là người giàu có, bốn bờ thịt mỏng mà giữa phẳng là người tán tài, bàn tay nhuận trạch là người phú quý, bàn tay khô ráo là người bần cùng, bàn tay thường như thoa máu là người rất quý, bàn tay vàng như bôi đất là người rất hèn, bàn tay Sắc xanh là người nghèo cùng, bàn tay Sắc trắng là người hèn hạ - Giữa lòng bàn tay mọc nốt ruồi đen là người khôn mà giàu, trong bàn tay bốn bờ mọc thớ ngang là người ngu mà nghèo.
36- Xem tướng lằn bàn tay
Trong tay có lằn cũng như cây có thớ vậy. Cây có thớ tốt gọi là gổ lạ, tay có lằn tốt tức là chất quí đó. Cho nên tay chẳng nên không có lằn. Có lằn là tướng người trên không lằn là tướng kẻ dưới, lằn sâu và tế vi là tốt, lằn cạn và thô tục là hèn
Trên bàn tay có ba lằn: Vạch trên ứng với trời, tượng vua, tượng cha, định nơi sang hèn vậy, vạch giữa ứng với người, tượng hiền, tượng ngu, biện nơi giàu nghèo vậy, vạch dưới ứng với đất, tượng tôi, tượng mẹ, chủ về thọ yểu vậy. Ba vạch sáng sủa, khong có lằn phá vỡ là tướng phúc lộc đó, còn như nhiều thớ dọc mà tán loạn là tướng người tính loạn và nhiều tai nàn, thớ ngang tan ra là chủ về trăm sự phá bại, lằn nhỏ như tơ rối là tướng người thông minh và có lộc tốt, lằn thô như đá nung là tướng người ngu lỗ và hèn mạt, lằn như bẻ rối là tướng người một đời bần hàn, lằn như rắc cám là tướng người một đời khoái lạc, có lằn xâu tiền là tướng giàu lớn, có lằn ngay hốt là tướng quan văn, trên mười ngón lằn như ốc xoáy là tướng vinh quy, bên tay lằn tả ra như nan cạnh giỏ là tướng phá tài, trên mười ngón lằn ngang ba vòng câu, là tướng sang, sai được tôi mọi, trên mười ngón lằn ngang một vồng câu là tướng hèn, bị người sai khiến. Đại phàm lằn dầu tốt mà hoặc xung phá, đều là tướng khuyết hãm vào thành vậy.
HÌNH LẰN BÀN TAY
1- Lằn tứ quý - Tlợn thời tiết đổi Sắc lằn mà định cát, hung. Mùa xuân xanh, mùa hạ đỏ, mùa thu trắng, mùa đông đen, là hợp Sắc thời tiết thì tốt, nếu trái Sắc thời tiết thì đều là xấu.
2- Lằn Đới ấn - Lằn như hình đeo ấn là tướng người có công danh, được phú quí.
3- Lằn ấn kim thoa - Lằn hình như đeo ấn kim hoa, trai có lằn đó ắt được tước vị, gái có lằn đó ắt thọ vinh phong. Hạng Võ xưa có lằn đó.
4- Lằn Song ngư - Lằn hình đôi cá là tướng người có văn chương giương hiển ở đời, làm nên quan tới Công Khanh.
5- Lằn bái tướng - Hình như cây đàn ngọc yêu là tướng văn chương đại quý. Trương Lương đời Hán có lằn đó.
6- Lằn binh phù - Lằn hình như tay cầm ấn binh phù là tướng thiếu niên đăng khoa, đương chức trọng nhiệm chốn biên cương. Trần Bình đời Hán có lằn đó.
7- Lằn nhạn trận - Lằn như hàng chim nhạn là tướng khoảng trẻ công danh giương hiển, tuổi già ẩn dật yên khang.
8- Lằn lục hoa - Lằn như sáu cánh hoa là tướng khoảng trẻ làm nên quan, tuổi già càng phú quí vinh hiển.
9- Lằn huyền ngư - Lằn như con cá treo là tướng thiếu niên có tài học, làm nên phú quí.
10- Lằn độc triều - Lằn chầu về một phía là tướng người thông minh, làm nên quan sang.
11- Lằn bảo vận - Lằn xoáy tròn như vầng trăng là tướng phú quí hậu lộc.
12- Lằn kim quy - Lằn như hình con rùa vàng là tướng phú quý yên lạc, thọ quá trăm tuổi.
13- Lằn ngọc quế - Lằn như hình cây ngọc quế là tướng người có đởm lược trí thức, khoảng trung niên làm nên đại quý.
14- Lằn bút trận - Lằn như hình hàng chữ là tướng người văn chương đức hanh, khoảng trung niên làm quan, tuổi già phúc thọ.
15- Lằn tứ trực - Lằn bốn vạch thẳng, là tướng người tới khoảng trung niên làm hiển đạt.
16- Lằn thiên ấn - Lằn như hình ấn vua là tướng phú quí vinh hoa.
17- Lằn tam nhật - Lằn như hình ánh ba mặt trời là tướng người văn chương học vấn, thinh danh dương dật bốn biển.
18- Lằn cao phù - Lằn nổi cao lên, ngón vào danh (giáp ngón giữa và ngón út) là tướng người đởm khí cường tcố, làm nên phú quý.
19- Lằn tam kỳ - Lằn ba vạch kỳ lạ là tướng cao quan đại quý.
20- Lằn lập thần - Lằn như hình đeo thủ ấn, sau này ắt làm nên phú quý hiển đạt.
21- Lằn ngọc tỉnh - Lằn như hình chữ Tỉnh là giếng, là tướng người phúc đức, làm nên thanh quý.
22- Lằn Mỹ lộc - Lằn hình ba góc, gọi là lằn Mỹ lộc, là tướng ăn mặc phong túc, tới đâu cũng đều được người tôn kính.
23- Lằn Phật nhãn - Lằn căn từ ngón tay cái, hình như Mắt Phật, là tướng người danh dự, thanh cao mà có phúc khoa danh.
24- Lằn phúc hậu - Là tướng người háo thiện, bình sinh chẳng gặp tai vạ, được hưởng tuổi thọ.
25- Lằn tiểu quí - Là tướng người sang nhỏ mà giàu.
26- Lằn chữ Xuyên - Là tướng người sống thọ, trai gái đều như vậy.
27- Lằn tam phong - Bàn tay thịt đầy, lằn khởi lên như ba ngọn núi là tướng người giàu có nhiều vàng ngọc ruộng nương.
28- Lằn học đường - Là tướng người thanh quý mà có phúc, vả khéo về kỷ nghệ.
29- Lằn xa luân - Lằn đầy tròn như bánh xe là tướng giàu sang lớn.
30- Lằn dị học - Là tướng người có nết kỳ lạ, thinh danh cao thượng, được quý nhân kính ái.
31- Lằn thiên hỉ - Là tướng người một đời nhiều phúc lộc, gia đình yên lạc.
32- Lằn Triết quế - Là tướng người có đại tài văn học, cao chiếm khoa danh.
33- Lằn tam tài - Là tướng người một đời thời vận vinh xương.
34- Lằn Ly quái - Là tướng người bình sinh nhiều nỗi lao khổ.
35- Lằn Ngân hà - Là tướng khắc vợ, phải cưới vợ hai lần, nên bạch thủ thành gia.
36- Lằn Khảm ngư - Là tướng người phú quý, nhưng cửa nhà không được hoà mục tề chỉnh.
37- Lằn trí tuệ - Là tướng người có trí tuệ, làm việc cơ xảo, vả lòng từ thiện, không gặp tai vạ.
38- Lằn trú sơn - Là tướng người ưu tịnh và ham hậu lợi, tuổi già luỵ về tình dục.
39- Lằn thiên kim - Là tướng người vinh hoa vào cực, phú quý kiêm toàn.
40- Lằn chấn quái - Là tướng người không con, lấy con nuôi nối đời.
41- Lằn hoa cái - Là tướng người nhiều âm đức có hậu phúc, phàm việc gì cũng gặp hung hoá cát.
42- Lằn âm đức - Là tướng người nhân từ, cả đời chẳng gặp sự hung nguy.
43- Lằn sơn quang - Là tướng người nên làm tăng đạo, nếu không thì cũng cô độc.
44- Lằn ẩn sơn - Là tướng người tính tình từ bi, ưa u tịnh, tuổi già tu hành.
45- Lằn dật dã - Là tướng người ưa u tịnh
46- Lằn loạn hoa - Là tướng người ưa xa hoa, hay chơi bời hoa liễu.
47- Lằn hoa tửu - Là tướng người ưa tửu Sắc, chẳng biết tiết của.
48- Lằn hoa liễu - Là tướng người ưa phong lưu, ham chơi bời, tính lười biếng.
49- Lằn hoa thoa - Là tướng người có duyên, đi đâu cũng được người yêu thương, mà nhất là hay được lòng vui của của đàn bà con gái.
50- Lằn thu hoa - Là tướng người háo Sắc mà vào hạnh, hay mèo vợ người ta.
51- Lằn Sắc dục - Là tướng người phong tình, ham Sắc dục tới già không chán.
52- Lằn Sắc dao - Là tướng người mang bệnh vì dâm dục.
53- Lằn hoa đào - Là tướng người ham mê tửu Sắc, hư mất một đời.
54- Lằn uyên ương - Là tướng người mê Sắc, ham rượu tới già chẳng thôi.
55- Lằn đào hồng - Là tướng người và tình dâm loạn, lấy nơi đường điếm làm nhà.
56- Lằn ngư văn - Là tướng người thanh tiết và sang, nhưng bị vợ dâm ngu.
57- Lằn nguyệt giác - Là tướng người một đời nhờ của vợ làm sinh hoạt
58- Lằn nô bộc - Là tướng người có vợ thông dâm với kẻ tôi mọi.
59- Lằn thê thiếp - Là tướng người có vợ nhiều ngoại tình.
60- Lằn khắc phụ mẫu - Là tướng người tuổi nhỏ khắc cha mẹ, không nơi nương cậy.
61- Lằn quá tuỳ - Là tướng người tuổi nhỏ mất cha, tlợn mẹ cải giá, bị làm con nuôi người khác, mà được vợ đẹp.
62- Lằn triều thiên - Là tướng người có vợ dâm loạn, diệt luân bại kỷ.
63- Lằn sinh chi - Là tướng người có vợ giảo hoạt và dâm, thông gian với người mà có con.
64- Lằn tam sát - Là tướng người chẳng lợi vợ con, khoảng giữa mất con, tuổi già cô độc.
65- Lằn khắc mẫu - Là tướng người tuổi nhỏ khắc mẹ, không người nuôi nấng.
66- Lằn tham tâm - Là tướng người tính ham lợi nhỏ, lại hay lừa người.
67- Lằn vong thần - Là tướng người phá gia tài, tổn họ hàng.
68- Lằn kiếp sát - Là tướng người sự nghiệp nhiều thành, nhiều bại, khoảng giữa vận rủi, tuổi già hơi khá.
69- Lằn nhất trùng - Là người người cô độc, không anh em, không vợ con.
70- Lằn châu tước - Là tướng người không lợi làm quan.
71- Lằn tửu thực - Là tướng người hay giao du với quý nhân, được ăn uống no chán.
72- Cũng lằn hoa cái - Là tướng người được của vợ.
37- Xem tướng lằn lưng tay
Năm ngón đều có lằn gần với hai đốt trên gọi là lằn rồng, là tướng làm thầy thiên hạ, đốt dưới là tướng Công Hầu, đốt giữa là tướng làm Sứ Tướng, ngón vào danh là tướng làm Khanh Giám, ngón út là tướng làm Triều Lang, ngón cái là tướng giàu lớn. Lưng tay năm ngón đều có lằn ngang quấn quanh, là tướng phong Hầu Vương, thớ suốt là tướng phong Tướng. Lưng tay là gốc ngón tay trỏ, cũng gọi là Minh đường, có lằn lạ, nốt ruồi đen là tướng tài nghệ cao quý, nếu thành lằn chim bay, thể chữ, lại là tướng quan sinh thanh hiển: Gốc ngón cái có lằn ngang gọi là lằn Không cốc, là tướng giàu lớn, vào đâu cũng lọt, có lằn vòng quanh quấn kẽ chẳng đứt, gọi là lằn Ngọc xuyến, chủ về được người kính ái, một lằn, hai lằn là tướng vinh sớm chiều chốc lát, ba lằn sắp lên là tướng quý Hàn lâm, trai gái đều đồng. Lằn nên được giáp vồng, nếu cách đứt chẳng giáp thì không nghiệm.
38- Xem tướng chân
Cái lạng của chân là trên chở một thân, dưới vận trăm thể, làm tượng của đất, thể dẫu rất thấp, mà dụng rất lớn, có thể phân biệt tốt, xấu, mà xét sang, hèn vậy. Muốn được vuông mà rộng, ngay mà dài, tế nhị mà mềm nhũn là tướng phú quý đó, nếu hẹp mà mỏng, ngang mà ngắn, thô tục mà cứng quến là tướng bần tiện đó. Dưới gót có lằn thớ là tướng hèn hạ, dưới chân có nốt ruồi là tướng ăn lộc, dầu lớn mà mỏng là tướng hèn hạ, dầu dày mà ngang là tướng nghèo khổ, dưới gót thành Mắt là tướng phúc tới con cháu, dưới gót lằn xoáy là tướng danh dự ngàn dặm, dưới chân phẳng như ván là tướng nghèo hèn, dưới chân dung được con rùa là tướng giàu sang, ngón chân nhọn và dài là tướng quý trung lương, ngón chân ngay và bằng là tướng hiền hào mại, chân dày bốn phía là tướng giàu cự vạn, chân dày ba bốn nốt ruồi là tướng cầm quyền hai sảnh. Đại khái chân người sang thì nhỏ mà dày, chân người hèn thì lớn mà mỏng.
39- Xem tướng lằn chân
Dưới chân mềm nhuyển, tế nhị mà nhiều lằn là tướng quí, thô tục, cứng quến mà không lằn là tướng hèn, dưới chân có lằn rùa là tướng ăn lộc hai ngàn hộc, dưới chân có lằn chim là tướng quan văn, dưới chân có lằn sách suốt lên là tướng lục bộ Thị lang, dưới chân có ba lằn như văn gấm là tướng ăn lộc muôn chung, dưới chân có lằn như cây hoa là tướng chứa của vào số, dưới chân có lằn như Mũi kéo là tướng chứa vàng cự vạn, dưới chân có lằn như hình người là tướng quan cao cực phẩm, có lằn như ba cây thước là tướng phúc lộc, có lằn như tám trôn ốc là tướng giàu sang. Hai ngón nhỏ không lằn thì phải, hai ngón nhỏ đều có, gọi là lằn mười ốc, là tướng người tính thô bỉ, duy mười ngón đều không lằn, phần nhiều là tướng phá bại. Dưới chân có lằn, đại lợi con cháu, dưới chân có lằn rùa là tướng có tiếng thanh một đời, dưới chân có nốt ruồi đen là tướng hiền sĩ phú quí.
40- Xem tướng ống chân
Ống chân là hạ đình, có thể biện được người hiền, kẻ ngu. Gối lớn, ống nhỏ là gốc hạc, là tướng hèn hạ, gối nhỏ không xương là tướng chết non. Con nít gối nhỏ là tướng không thọ. Trên gối mọc gân là tướng một đời bôn ba lao lục, trên gối mọc lông là tướng một đời chẳng phạm quan hình, lông cứng cũng bị hình phạt, nên nhuyễn là hay, một đời tướng đều tốt. Còn như gối lớn, ống nhỏ, cũng là tướng hạ ngu, chẳng thọ dụng được. Sách nói rằng: "Gối lớn chẳng nên lộ xương, ống lớn rất nên gối tròn". Lại nói rằng: "Gối tròn một đời chẳng tới công đình, ống lớn, gối nhọn, nửa đời thường bị quân tụng".
41- Xem tướng cánh tay, đùi gối
Cánh tay (cánh chỏ), đùi gối (bắp vế) là cội rễ vận động của một thân người, phải cho cứng chắc, da thịt phải bao bọc gân xương, không vậy tức là tướng xấu; người lớn, người nhỏ, người béo, người ốm (gầy) đều có mới tốt. Con nít không có đùi gối, chỉ sống được 18 tuổi là cùng, người lớn không có đùi gối là tướng nghèo hèn, người thường không có đùi gối, chắc là bất lương, người ốm không có đùi gối, phải bôn ba lưu lạc tha hương, người béo không có đùi gối, vận sau không tốt. Phàm đàn bà cũng như vậy.
42- Xem tướng lông
Lông bất cứ sinh tại chỗ nào, hễ thô và cứng là xấu, nên nhỏ và nhuyễn là tốt. Ống chân, dưới rốn, cốc đạo đều có lông, chủ về một đời chẳng bị bệnh âm, chẳng sợ thần quỷ. Trên ngực mọc lông là tướng người tính nóng, trên lưng mọc lông là tướng một đời lao khổ, trên vú mọc lông (ba căn là tốt), ắt sinh quý tử, nếu lông như cỏ rối mà nhiều là tướng không con, ngón tay mọc lông cũng tốt. Tổng chi lông nên tế nhị, mềm nhuyễn là hay.
43- Xem tướng huyết
Huyết tại trong da, muốn biết trệ, đục, hay là sáng, vượng, nên xem khí Sắc. Huyết là cội rễ của khí Sắc, huyết đủ mới phát ra khí Sắc, huyết vượng thì khí Sắc mới sáng. Ẩn ẩn ứng ở trong, ánh ra ngoài da là huyết sáng rỡ, trong có Sắc là vượng Trai, gái huyết sáng, huyết vượng là tướng phú quí và hưởng thọ. Tối tối ở trong là trệ, đen, đỏ hiện ra ngoài là đục, huyết trệ, huyết đục là tướng hèn hạ nghèo cùng, Sắc trắng như phấn, là huyết chẳng có màu, huyết chẳng có màu là tướng một đời nhiều vận rủi và không thọ.
44- Xem tướng da
Phàm da thuộc thổ (đất), đất phải dày chắc mới tư sinh được muôn vật; da phải dày chắc mới bao bọc được xương thịt, tư nhuận được khí huyết. Cho nên da gấp và mỏng là tướng thọ đoản, da khoan và dày là tướng thọ trường. Sách nói rằng: "Da gấp, da khô là tướng người ngu ngoan, hèn hạ, phá tán gia tài và khó được tới 49 tuổi".
45- Xem tướng đi
Lúc đi là sự cử động của một thân, hình tích lưu lộ ra tại đó. Dáng đi của người sang thì khí tlợn với dáng, lực tụ tại khoảng gót dẫm, cho nên mình chẳng lay động, mà chân chẳng bước loạn vậy (quý vì nghiêm trọng, cho nên chắc bước). Dáng đi của người hèn hay co duỗi (không có lực eo lưng) hay lệch nghiêng, hay dựa né (không có lực gân chân). Dáng đi của người yểu hay mềm yếu (vì khí suy) hay nhẹ nổi (vì khí khinh phù cho nên chết non). Dáng đi của người bôn tẩu danh lợi, chẳng đỗ ngón chân (vì tính mang cấp cho nên không vững bước). Dáng đi của người giảo quyệt hay bước quá đầu (vì hay nghĩ ngợi tính lấy kế giảo độc, vậy nên và đi và cúi, thành ra đầu trước, chân sau). Dáng đi của người cương quả hay đĩnh đạc bạo bước (dầu chết không sợ, thấy việc dám làm). Dáng đi của người buôn bán thường mình nặng mà chân nhanh (vì lúc nào cũng mưu đồ đường lợi). Dáng đi của Phong quân (người có Sắc phong của vua) thường mình nặng mà chân chắc (vì lưng dày, đít tròn là tướng có phúc). Người ngôi quan nhỏ đi ắt lắc tay, xem cánh tay, bắp chân ra bộ khó nhọc (vì nóng về phượng thừa quan trên). Người ngôi quan lớn đi ắt mình trang trọng, khí tàng tại ngực và lưng (vì có oai và tự nhiên).
46- Xem tướng nói
Nói năng quan hệ về điều vinh, nhục. Nhanh Miệng thì chiêu lấy sự lỗi. Chắc lời thì ít kẻ oán. Người nói phiếm hay lộ răng. Người nói cuồng hay há lớn Miệng. Người nói cẩn thận hay Môi dài. Người nói ngay thẳng hay răng bằng. Người nói vội hay Miệng mỏng. Người nói dối hay răng nhỏ. Người ưa nói sự tiện nghi hay Miệng lật lại. Người ưa nói dài nói ngắn hay Miệng hở (Môi chẳng che răng). Người nào răng trước cửa lớn và bằng, chẳng nói giảo quyệt thâm độc. Người răng trước cửa nhỏ và lệch, hay nói bất cẩn bất tín. Người lưỡi lớn, Miệng nhỏ nói chẳng hết lời. Người lưỡi nhỏ, Miệng lớn nói năng lanh lợi. Người lưỡi lớn nhiều lằn nói ắt hợp lẽ. Người lưỡi dài, nói có cội rễ. Người lưỡi ngắn nói không tinh tế. Người trên lưỡi đen tối, nói không thuỷ chung. Người trong lưỡi tươi hồng, nói có đạo lý. Lời nói chưa ra mà trước đã thấy lưỡi là người hay nói sự lỗi của người khác. Lời nói chưa thôi mà đầu dủ xuống là người Miệng phải, lòng quấy. Lưỡi có nốt ruồi đen là người tính hay nói dối. Đó là đại lược xem tướng nói vậy.
47- Xem tướng ăn uống
Ăn uống nhờ ở Thuỷ tinh (Miệng). Thuỷ tinh là Lộc đường, làm chủ ăn uống đó. Miệng rộng, Môi hồng và nhuận trạch, ăn lộc ắt phong. Miệng nhỏ, Môi đen và úp lệch, ăn mặc ắt thiếu. Người sang ăn uống dễ dung thọ (nhẹ nhàng) mà nhai nuốt không ra tiếng, gọi là ăn như rồng như cọp vậy. Kẻ hèn ăn uống nhiều phiếm dật (làm nhàm), mà gậm nhấm thường có âm, gọi là ăn như chó như lợn vậy. Ăn uống lắt nhắt như con chuột là tướng chết non và bần hàn, ăn uống nhỏ nhẻ như chim xẻ là tướng chết đói và cùng khổ. Sức mạnh ăn gồm, suất đời, mà Địa các chầu xuống bụng, lại có nơi uỷ thác là tướng người đại phúc. Sức mạnh ăn gồm suất người mà Địa các chẳng chầu xuống bụng, lại không nơi uỷ thác là tướng kẻ ăn mày. Hễ ăn ắt bị bệnh là bởi Miệng nhỏ Môi mổng. Hễ ăn vào là không yên, là vì răng trắng, Môi hồng. Người ăn hay nghẹn, là vì râu làm khốn Miệng, vì tỳ vị hàn. Người bị chết đói là vì Miệng phản với dạ, lại gặp lằn phá (lằn mép vào Miệng hay là ngoài Miệng nhiều lằn là tướng chết đói). Người có khí trắng vào Miệng là tướng chết về thuốc độc. Người có khí đen xâm Miệng là tướng tuyệt thực mà chết. Ăn uống nhồm nhoàm, nuốt chửng, húp soạt, gậm xương, cắn gân, đều là tướng ăn uống của kẻ hèn hạ.
48- Bàn về hình
Người ta bẩm khí âm dương, giống hình trời đất, thọ tư bản của năm hành mà làm giống linh hơn hết muôn vật vậy. Cho nên đầu tượng trời, chân tượng đất, Mắt tượng mặt trời, mặt trăng, tiếng tượng sám sét, huyết mạch tượng sông ngòi, xương trối tượng kim thạch, trán Mũi tượng núi non, lông tóc tượng cây cỏ. Trời nên cao xa, đất nên vuông dày, mặt trời mặt trăng nên sáng tỏ, sấm sét nên vang động, sông ngòi nên nhuận trạch, kim thạch nên kiên cương, núi non nên cao lớn, cây cỏ nên tốt tươi, đó là đại khái vậy.
49- Bàn về thần
Hình để nuôi huyết, huyết để nuôi khí, khí để nuôi thần. Cho nên hình toàn thì huyết toàn, huyết toàn thì khí toàn, khí toàn thì thần toàn, đó mới hay hình nuôi được thần, nhờ về khí mà yên vậy. Khí chẳng yên thì thần động mà chẳng yên, yên được thần thì duy có người quân tử.
Người ta lúc thức thì thần giong ở Mắt, lúc ngủ thì thần đỗ tại tâm, vậy thì Mắt là nơi ra vào của thần, mà là cái đồ phát biểu của hình, như bóng sáng của mặt trời, mặt trăng, ngoài chiếu muôn vật, mà cái thần vẫn ở trong vầng mặt trời, mặt trăng vậy. Mắt sáng thì thần trong, Mắt tối thì thần đục, trong thì quý, đục thì hèn, trong thì thức nhiều, ngủ ít, đục thì thức ít, ngủ nhiều, suy lúc thức, lúc ngủ, có thể biết được người sang, kẻ hèn vậy. Kìa, cái cảnh giới chiêm bao nghĩa là thần giong chơi ở lòng, mà xem thấy chỗ chơi nó xa, cũng chẳng qua trong khoảng năm tạng, sáu phủ, cùng là trong khoảng tai Mắt trông nghe đó, cái cõi mình qua chơi và cái việc mình xem thấy, hoặc cảm với nhau mà ứng, hoặc việc nhà tới, cũng là lẻ có của trong thân mình vậy, cái sự mình xem thấy tại trong giấc chiêm bao, tức là trong thân mình, chứ chẳng phải ngoài thân mình đâu. Bạch nhãn Thuyền sư bàn mộng, có năm cảnh: Một cảnh linh, hai là cảnh bảo, ba là cảnh quá khứ, bốn là cảnh hiện tại, năm là cảnh vị lai. Thần thảm thì mộng sinh ra, thần tịnh thì cảnh diệt đi, này xem cái hình hoặc trong trẻo, hoặc sáng sủa, hoặc trầm trọng, là do thần phát ở trong mà hiện ra ngoài vậy. Thần trong mà hoà, sáng mà suốt, là tướng phú quý đó. Lạnh mà tịnh là cái thần yên, hư mà gấp là cái thần thảm.
Thần chẳng nên lộ, lộ thì thần dông đi, ắt là xấu vậy. Thần quý hồ ẩn, ẫn thì người ta xem thấy có lòng kính sợ, gần thì thần mừng mà tới là quý.
Phàm tướng, chẳng thà thần có thừa mà hình chẳng đủ, chứ chẳng nên hình có thừa mà thần chẳng đủ. Thần có thừa là tướng sang, hình có thừa là tướng giầu. Thần chẳng nên kinh, kinh thì tổn thọ, thân chẳng nên cấp, cấp thì nhiều lầm. Lại còn nên xem tướng khí thức người ta: Khí rộng thì dung được người, mà đức mới lớn, thức cao thì hiểu được lẽ, mà lồng mới kinh. Khí nông, thức thấp, dầu có thừa của cũng chẳng khỏi là tiểu nhân vậy.
50- Bàn về hình có thừa
Hình có thừa là: Chỏm đầu tròn dày, bụng và lưng cao nở, trán rộng bốn phía, Môi đỏ, răng trắng, tay tròn thành vòng, Mũi thẳng như trái mật, Mắt tròng đen, tròng trắng phân minh, lông mày tốt, dài và thưa, vai nở, rốn dày, trước ngực phẳng rộng, bụng tròn buông xuống, dáng đi dáng ngồi đoan chính, năm nhạc chầu lại, ba đình xứng nhau, thịt nhị, xương nhỏ, tay dài, chân vuông, xem thấy có vẽ oai nghiêm, nhìn ra có ý vui vẻ, đó đều là hình có thừa vậy. Hình có thừa là tướng người sống thọ vào bệnh và hưởng giàu sang đó.
51- Bàn về thần có thừa
Thần có thừa là: Tinh Mắt trong sáng, nhìn ngó chẳng nghiêng, my tốt và dài, tinh thần tảng động, dung Sắc nhuận trạch, cử chi ung dung, ngó xa thì nhấp nhánh như mặt trời trên nhành chiếu trời sương; nhìn gần thì linh lung như gío hoà động nhành hoa xuân, tới việc gì thì cương nghị như con thú dữ bước trong núi sâu, xử với chúng thì tiêu diêu như chim phượng hoàng bay liệng trên đường mây, lúc ngồi như hòn đá vững chẳng động, lúc nằm như con quạ đỗ chẳng hay, lúc đi nhẹ nhàng như dòng nước phẳng chảy, lúc đứng sừng sững như ngọn núi cao vọi, nói chẳng nói bậy, làm chẳng làm càn, mừng giận chẳng động cái lòng, vinh nhục chẳng đổi cái nết, muôn vẻ giao lẫn ở trước, mà lòng thường như một mực, đó là thần có thừa vậy. Thần có thừa là tướng người thượng quý, sự hung tai khó phạm vào, được hưởng trót lộc trời đó.
52- Bàn về hình chẳng đủ
Hình chẳng đủ là: Chỏm đầu nhọn mỏng, vai cánh hẹp lệch, gân eo thưa nhỏ mà đốt nách ngắn gạt, bàn tay mỏng, ngón tay thưa, Môi co, trán lép, Mũi ngửa lên, tai lật lại, eo thấp, ngực hảm, một vai cong, một vai thẳng, một Mắt ngửa, một Mắt cúi, một con ngươi lớn, một con ngươi nhỏ, một gò má cao, một gò má thấp, một tay có lằn, một tay không lằn, trong lúc ngủ Mắt mở, trai nói tiếng gái, răng vàng mà lộ, Miệng mỏng mà nhọn, chỏm đầu sói không có tóc tơ, Mắt sâu chẳng thấy con ngươi, bước đi khập khễnh, Sắc mặt bẽn lẽn, đầu nhỏ mà mình lớn, trên ngắn mà dưới dài, đó là hình chẳng đủ vậy. Hình chẳng đủ là tướng người nhiều bệnh mà đoản mệnh phúc bạc mà bần tiện vậy.
53- Bàn về thần chẳng đủ
Thần chẳng đủ là: Chẳng say tợ say, thường như người bệnh, chẳng sầu tợ sầu, thường như người lo, chẳng ngụ tợ ngủ ngay thây như chết, chẳng khóc tợ khóc xảy như hồn kinh, chẳng ngã (ngã) tợ ngã, chẳng mừng tợ mừng, chẳng sợ tợ sợ, chẳng ngây tợ ngây, chẳng kinh tợ kinh, dung chỉ hôn loạn, Sắc đục như nhuộm, thần Sắc mê sảng, thê thảm dường như mất vật gì, hoảng hốt dường như sợ sệt, nói năng nhút nhát, dường như mắc cở (xấu hổ); làm lụng rụt rè, như bị lăng nhục, Sắc trước tươi mà sau tối, nói trước lanh mà sau châm, đó đều là thần chẳng đủ. Thần chẳng đủ là tướng người nhiều bị lao tù cuồng ách, dầu làm quan cũng mất ngôi cao.
54- Bàn về tiếng
Người ta có tiếng, cũng như chuông trống có âm, đồ lớn thì tiếng xa, đồ nhỏ thì tiếng ngắn, thần thanh thì khí hoà, khí hoà thì tiếng nhuận,sâu mà tròn hoạt, thần trược thì khí gặt, khí gặt thì tiếng cháy gấp mà nhẹ rè. Cho nên tiếng người sang phần nhiều ra tự trong đơn điền (ở phía dưới rốn khoảng 2 phân rưỡi tây) thông qua với tâm khí, hoà lẫn mà đạt ra ngoài.
Đơn điền là cội rễ của tiếng đó, cuối lưỡi là đầu máy của tiếng đó, cội rễ sâu thì đầu máy nặng, cội rễ nông thì đầu máy nhẹ, đó mới hay tiếng phát tự cội rễ mà hiện ra đầu máy vậy. Còn như nhẹ mà tròn hoạt, chắc mà ưởng lạng, huõn mà mau mắn, cấp mà hoà dịu, dài mà có lực, dõng mà có âm, lớn như thì như chuông của khua vang, trống cái dậy động, nhỏ thì như dây đàn tâu khúc, oanh vàng bay gọi; xem thấy vẻ mặt thì khoan rồi mới động, cùng nói chuyện với thì lâu rồi mới ứng, đều là tướng người sang vậy. Tiếng nói của kẻ tiểu nhân đều phát tự trên đầu lưỡi, gấp rút mà chẳng đạt, hoặc khẩn cấp âm rè, huõn mà rít, sâu mà trệ, nông mà nóng. Ôi, lớn thì tan, tan thì phá, hoặc nặng nhẹ chẳng đều, líy lo không thành tiếng, hoặc díu dắt mà dữ, phiền loạn mà nổi, hoặc rè như tiếng chuông vỡ, đục như tiếng trống nát, lại như quạ lạnh mớm con, nhạn độc gào bạn, lại như vượn đau tìm lũ, chim hạc mất bầy, nhỏ như trùn dế ngâm thu cuồng như ruồi xanh gọi đêm, nóng như chó cắn, như dê gào, đều là tướng kè hèn vậy.
Trai nói tiếng gái là tướng bần tiện, gái nói tiếng trai cũng là tướng phương hại. Song mình lớn mà tiếng nhỏ là tướng xấu, hoặc khô ráo chẳng tày, gọi là tứng la võng, lớn nhỏ chẳng đều, gọi là tiếng thư hùng, hoặc trước chầy mà sau gấp, hoặc trước gấp mà sau chầy, hoặc tiếng chưa ngưng mà khí trước tuyệt, hoặc lòng chưa động mà Sắc trức bién là tướng hèn hạ đó.
Ôi ! Thần định ở trong, khí hoà ở ngoài, rồi sau mới có thế giao tiếp với người được, là vì nói có thứ tự trước sau, mà Sắc cũng chẳng biến vậy. Nếu thần chăng yên mà khí chẳng hoà, thì tiếng lỗi thứ tự trức, sau từ và Sắc đều rối lẫn hết cả, đó là tiếng chẳng tốt đó.
Kìa người ta bẩm hình năm hành, thì tiếng với khí cũng đủ tượng năm hành vậy, cho nên tiếng thổ cao dày, tiếng mộc cao xướng, tiếng hoà cháy dữ, tiếng thuỷ hoãn cấp, tiếng kim hoà nhuận.
Lại nói rằng: "Người tiếng nhanh không có tài đoán việc, người tiếng vỡ làm việc không thành, người tiếng đục, vận chẳng phát đạt, người tiếng thấp lỗ dộn vào văn, tiếng trong lạnh như nước chảy trong suốt là tướng rất quý, ưởng lạng như tiếng vang trong chum là tướng ngọ phúc kiêm toàn.
Tiếng thật không có hình, thác ở khí mà phát ra, tiếng người hèn thì phù trược, tiếng người sang thì trong óng, nhu quá thì nhát, cương quá thì gãy.
Tiếng như nghe tại cách núi, tròn mà dài, không khuyết, không dứt, đó tức là tiêến người sang phong tiết truyền đi xa.
Mình nhỏ tiếng rộng, ngôi tới tam công, mình lớn tiếng nhỏ, thọ mệnh chết yểu, tiếng như lệnh vỡ ( vỡ), điền sản phá tan, tiếng như lửa bóng, bôn ba vất vả;
con trai tiếng mái, (tiếng đàn bà) phá hết của nhà;
con gái tiếng trống (tiếng đàn ông) ngôi chồng chẳng yên.
55- Bàn về khí
Đá chứa ngọc mà núi rạng, cát bọc vàng mà sông trong, đó là của báu chí linh, hiện ra Sắc mà phát ra khí vậy.
Hình là thân thể đó, khí là cái vật làm cho đầy đủ thân thể, thân thể nhân khí nở rộng ra, thần lành thì khí hoan, thần yên thì khí tịnh, sự được lỗi chẳng phá hoại nổi khí, điều mừng giận chẳng kinh động được thần, thi đối với đức là có hung, đối với lạng là có độ, tức là người trọng hậu có phúc vậy. Người quân tử khéo nuôi cái khí, khí khoan để nuôi được vật, hoà để tiếp được vật, cương để chế được vật, trong để lóng được vật, chính để trị được vật, chẳng khoan thì hẹp, chẳng hoà thì trái, chẳng cương thì nhu, chẳng trong thì đục, chẳng chính thì thiên, xem cái đồ xấu hay là nông, xét cái Sắc táo hay là tịnh, thì có thể phân biện được quân tử với tiểu nhân vậy.
Khí dài mà thư, hoà mà chẳng dữ là tướng người phúc thọ, cấp súc chẳng đều, hầm hầm hiện ra vẻ mặt đó là tướng kẻ hèn hạ
khí hớp vào, phát ra ngoài mặt, mà hiện làm cái triệu cát hung, lúc tán ra thì như lông như tóc, lúc tụ lại như thóc như gạo, trông nó có hình, án vào không có tích, nếu chẳng tin ý để xem ra, thì hoạ phúc chẳng lấy gì làm bằng cứ vậy.
Khí ra vào không có tiếng, tự tai mình chẳng xét được, hoặc nằm mà chẳng thở, gọi là tượng khí hơi rùa, thở ra, hớp vào, khí đầy mà mình động là triệu gần chết đó.
Ông Mạnh Tử chẳng đoái số lộc muôn chung là khéo nuôi được khí đó, còn như tranh cái lợi mình muốn, hâm hở lộ ra Sắc mặt, mà phá hoại cái khí, kẻ ấy sao đủ bàn thay.
Sách nói rằng: "Khí là gốc của hình, xét ra thấy người hiền, kẻ ngu, kẻ tiểu nhân phần nhiều cấp táo, người quân tử thì hay khoan thai. Hể bạo lệ thì tại vạ khuấy rối, thâm trầm thì phúc lộc có thừa".
Ø 56- Tướng đàn ông khắc con
Ø Đầu lớn, mặt nhọn
Ø Đầu nhọn, trán lép.
Ø Trán hoa cái
Ø Trên trán ba lằn
Ø Trán cao, má lép.
Ø Lông mày La hán
Ø Lông mày chữ Bát
Ø Lông mày hoa cái
Ø Ngoạ tàm thấp tối
Ø Lông mày nghển lên
Ø Lông mày thưa, tóc mai thưa.
Ø Mắt hãm thành hố
Ø Con ngươi vàng
Ø Tóc đỏ
Ø Mắt rắn, da rắn
Ø Mắt ngựa, ngươi rồng
Ø Mắt chuột, ngươi trĩ
Ø Dưới Mắt mọc lông.
Ø Mũi Khoảng khoảng
Ø Mũi sư tử
Ø Mũi như ngọn núi đứng mình
Ø Sơn căn gãy đứt
Ø Trên Mũi lằn ngang
Ø Đầu Mũi phá khuyết.
Ø Miệng Lôi công
Ø Góc Miệng nhiều lằn.
Ø Trên Môi không lằn.
Ø Nhân trung cạn và ngắn
Ø Nhân trung phẳng đầy
Ø Nhân trung xế nghiêng.
Ø Rìa má chim ưng
Ø Rìa má hồ tôn.
Ø Một gò má mọc nơi mặt.
Ø Râu chia đuôi én
Ø Râu thẳng không vướng
Ø Râu nhiều, không tóc.
Ø Tai không luân quách.
Ø Sắc mặt như phấn
Ø Mặt như da quýt
Ø Mặt toàn lằn găn
Ø Mặt không màu vẻ.
Ø Thịt nặng như bùn
Ø Thịt nổi lại nhuyễn
Ø Thịt nổi như bùn
Ø Thịt trơn như bông
Ø Thịt nhiều, xương yếu
Ø Toàn thân thịt lạnh
Ø Huyết da khô sém.
Ø Xương tay tròn
Ø Xương lạnh, tinh buốt.
Ø Đầu vú trắng mà nhỏ
Ø Đầu vú chẳng dậy.
Ø Trên dương không lông
Ø Lông dương mọc nghịch
Ø Dương nang không lằn.
Ø Tiếng như lang hổ
Ø Tiếng như chẻ tre.
Ø Tam quan không có mạch
Ø Mạch huyết con thận chẳng dậy.
Ø Mình như hình rắn.
Ø 57- Tướng đàn ông khắc vợ
Ø Tướng La Hán
Ø Hình Phán quan
Ø Thịt mặt nhẹ nổi
Ø Trên mặt mọc bọt
Ø Mặt như túi phấn.
Ø Mày nặng đè Mắt
Ø Mày có lằn ngang.
Ø Mày lằn chữ Bát
Ø Lông mày mọc nghịch –
Ø Trong mày có nốt ruồi
Ø Lông mày vòng cong.
Ø Ấn đường lằn chữ Xuyên.
Ø Thiên thương hãm
Ø Thiên thương mở kho (Thiên thương mọc lằn mở kho, chủ khắc năm vợ).
Ø Gian môn hãm
Ø Gian môn mọc nốt ruồi.
Ø Gian môn mọc lằn ngang.
Ø Ngư vĩ khô
Ø Ngư vĩ lằn loan
Ø Ngư vĩ thấp hãm
Ø Ngư vĩ buông thấp
Ø Ngư vĩ có lằn (mỗi lằn khắc mỗi vợ).
Ø Sơn căn đứt giữa
Ø Sơn căn hẹp nhỏ
Ø Sơn căn khô hãm.
Ø Niên thượng, Thọ thượng mọc lằn ngang (mỗi lằn khắc mỗi vợ).
Ø Mắt phía tả hơi nhỏ
Ø Tròng Mắt trắng trên vàng
Ø Đuôi con Mắt có lằn
Ø Dưới Mắt lằn lưới - Mắt lằn chữ Thập (+) (dưới Mắt có lằn chữ Thập, vợ chết về nghiệp thắt cổ).
Ø Xương gò má cao rô.
Ø Râu Sắc đỏ
Ø Râu nhiều không vướng
Ø Râu nhiều Mũi nhỏ.
· 58- Tướng đàn bà cô độc
· Lông mày đứng lên hết cả.
· Đôi Mắt sâu hãm - Âm, dương hỗn tạp.
· Tam dương (Thái dương, trung dương và thiếu dương tại phía trên con Mắt) đen như mực.
· Trán cao.
· Mũi hàm, sống thấp.
· Niên thượng và Thọ thượng có lằn như lưỡi câu.
· Lôi công thổi lửa (Miệng chum chúm).
· Nhân trung phẳng đầy.
· Môi trên bao dưới
· Da Môi lằn găn.
· Da Môi Sắc trắng
· Da Môi Sắc xanh.
· Mặt nhọn, tai nhỏ
· Toàn mặt Sắc trệ.
· Có gò má mà không rìa má.
· Đầu vú phá rách
· Đầu vú chẳng dậy.
· Đầu gối nhỏ nông và lồi lên.
· Lưng tròn ba vây.
· Thịt nổi, thịt trệ
· Thịt nhiều, xương ít
· Thịt nặng như bùn.
· Da mỏng, xương nhỏ.
· Không bụng (bụng lép), không đít (đít vẹt).
· Đùi chân và cánh tay không bao được xương thịt.
· Tóc chẳng đầy thước (chẳng dài được 0m40)
· Tóc thô, Sắc vàng.
· Hình giống đàn ông
· Tiếng vỡ ( vỡ) và thẳng.
59- Tướng đàn bà khắc sát chồng con
o Trán có xoáy ốc
o Trán có ngấn lằn
o Trán cao, mặt hãm.
o Mặt dài, Miệng lớn
o Mặt gầy (ốm) nổi gân
o Mặt như ba khuỷu
o Mặt nhọn, eo hẹp
o Mặt như Vân mẫu (trắng)
o Mặt trệ như bùn.
o Mặt mọc một xương gò má
o Xương gò má khởi cao.
o Ấn đường như cây kim treo.
o Xương lông mày lồi ra
o Lông mày thô và mọc nghịch
o Lông mày hơi dựng lên.
o Con ngươi Sắc vàng đỏ
o Mắt lớn, con ngươi tròn
o Mắt lộ bốn phía trắng.
o Mắt thành ba góc
o Dưới Mắt thịt khô.
o Trong Mũi mọc lông
o Đầu Mũi cong như góc gò
o Sơn căn thấp hãm
o Sơn căn có nốt ruồi
o Thọ thượng và Niên thượng khởi lên từng đốt.
o Miệng như thổi lửa
o Môi hớt, răng lộ
o Họng kết, răng lớn.
o Tai không vòng lật lại
o Tai mỏng như giấy.
o Màu tóc sém vàng
o Tuổi trẻ rụng tóc.
o Mệnh môn xương cao
o Cổ lộ đốt xương
o Xương thô, tay lớn
o Xương cứng, da gấp.
o Nói như tiếng con trai
o Tiếng lớn như sấm.
o Thịt lạnh như băng
o Tính nóng như lửa
o Thần đục, khí thô
o Đêm ngủ hay gọi.
Ø 60- Tướng đàn bà đa dâm và hèn
Ø Đầu cúi quá bước
Ø Hằng hướng đầu ngoái lại
Ø Đầu lớn không tóc
Ø Nghiêng Mắt, sũ đầu
Ø Vẫy tay, lắc đầu
Ø Đầu lệch, trán hẹp
Ø Trán rộng, lông mày rậm
Ø Trán nhọn, gót lắc
Ø Mặt hai má lép
Ø Thịt mặt nổi như đống đất
Ø Mặt như hoa đào
Ø Mặt như nốt ban
Ø Hai gò má hãm
Ø Thấy người che mặt.
Ø Hai Mắt nổi bóng sáng
Ø Góc Mắt buông thấp
Ø Mắt lộ bóng trắng
Ø Mắt nhắm, mày châu
Ø Nhìn nghiêng, ngó trộm
Ø Trong Mắt mọc nốt ruồi
Ø Con ngươi tròn, mặt dài.
Ø Mũi ngửa chầu trời
Ø Mũi nhỏ, mặt lớn.
Ø Góc Miệng mọc lằn
Ø Môi trắng và mỏng
Ø Môi xanh như màu chàm
Ø Một Môi tự nhiên động
Ø Làn Môi dẫn liền với má
Ø Lưỡi nhọn, Môi hớt
Ø Thè lưỡi, rụt cổ.
Ø Răng trắng như ngọc
Ø Răng chuột, nanh quỉ
Ø Nhăn răng đùa áo.
Ø Tai chuột, đầu chương (đầu như đầu hươu).
Ø Mình dài, cổ ngắn
Ø Mình như cây liễu bị gió.
Ø Lưng nhỏ, vai lạnh
Ø Vươn eo thở dài
Ø Eo lưng lệch, ngón tay ngắn.
Ø Eo lưng loan, ốn chân hạc
Ø Lưng hãm, bụng nhỏ
Ø Đít móp, ngực cao
Ø Rốn lồi gần bụng dưới.
Ø Né má cắn ngón tay.
Ø Đầu vú trắng và thấp.
Ø Trên ống chân mọc lông.
Ø Âm môn không lông
Ø Âm hộ da sáng
Ø Âm mao như cỏ
Ø Da trắng như phấn
Ø Da đỏ như sa
Ø Da trơn như đầu
Ø Thịt nhuyễn như bông
Ø Huyết chẳng màu tươi
Ø Đi như con ngổng
Ø Bước như con vịt
Ø Một bước ba lần lắc
Ø Như ngựa đổi móng
Ø Đứng ré xế lịch.
Ø Cử chỉ ngây ngô mê hoảng
Ø Vào cớ tự nhiên kinh
Ø Tính tình hay biến đổi
Ø Ngủ mê thường gọi la
Ø Ngồi chẳng yên ổn.
Ø Nói năng phiếm tạp
Ø Tự nhiên nói một mình
Ø Nói một lời ba lần dứt.
Ø Chưa nói đã cười
Ø Cười như ngựa hí
Ø Nói cười hằng ngừng lại.
Ø Hình như con rắn
Ø Ăn như con chuột
Ø Ăn uống không hết.
61- Đàn bà có bảy đức hiền, ắt vượng chồng con
Bước đi chân chính
Mặt tròn, thể dày
Ngủ quan đều chính
Ba đình đều cân
Dung mạo nghiêm chính
Nói năng chẳng phiếm
Ngồi nằm đều ngay.
o 62- Đàn bà có bốn nết hay, ắt sinh quí tử
o Ngày thường chẳng tranh cạnh với người
o Gặp khổ nạn chẳng nói ra lời oán hận
o Xảy gặp việc chẳng inh, chẳng mừng và hay tôn kính
o Bớt ăn bớt uống.
ü 63- Tướng thọ và tướng yểu của đàn bà
ü Đàn bà lấy huyết làm chủ, huyết suy thì bệnh nhiều, huyết vượng thì bệnh ít.
ü Hễ tướng đàn bà da mổng, da gấp, xương nhọn, thịt lép, thì là huyết suy và thần thô, sao sống thọ được
ü Huyết có đủ thì thần mới đủ, thần đủ thì da dày, da khoan, xương ngay, thịt chắc, tự nhiên được hưởng phúc thọ.
· 64- Tướng sang và tướng hèn của đàn bà
· Đầu nhọn, tóc ít, ắt là gái nhà hèn;
· mặt tròn, Mắt ngay, ắt là vợ người sang.
· Huyết đủ, khí hoà ắt sinh con tốt, Mũi ngay, gò má bằng, ắt dấy nghiệp nhà.
· Phàm đàn bà đại quý thì mình ngay, mặt ngay, Mắt trong như nước, Môi đỏ như son, vả lại vai tròn, đàn bà đại phú thì đầu bằng, trán rộng, con Mắt tinh tú.
· Còn như Môi mỏng, mình nhẹ, mặt đẹp, thiên thương lép, răng trắng, thịt sáng, đó là đàn bà hèn vậy.
· 65- Âm mao của đàn bà chủ về sang hèn thế nào ?
· Phàm âm mao nên dài mà vàng và nhuyễn, là tướng sang.
· Đời xưa âm mao của Lã thái hậu triều Hán dài một thước 8 tấc, sợi nào cũng vàng như Sắc kim, cuốn tại trên âm, lấy tay vuốt ra thì dài quá gối, buông tay ra thì liền xoắn lại, gọi là chỉ vàng miến âm, cho nên làm nên cực phẩm, phú quí, vả cũng là tướng đa dâm.
· Nếu dài nhưng đen và thẳng, là tướng đàn bà gian sát, dầu sang cũng chẳng được lâu.
· Còn như cứng, hay là rối như cỏ là tướng đàn bà hèn hạ.
· Âm mao mọc sớm là tướng yểu, mọc muộn là tướng dâm, cứ mọc vào trông vòng ba bảy hai mươi mốt tuổi mới hay.
· 66- Xem huyết khí của đàn bà ở chỗ nào ?
· Phàm đàn bà lấy huyết làm chủ, da là chỗ đỗ của huyết, huyết là cái gốc của da, xem da có thể biết được huyết suy hay là huyết vượng.
· Da sáng thì huyết nhuận, da hồng thì huyết khô, da vàng thì huyết đục, da đỏ thì huyết suy, da trắng thì huyết trệ.
· Hễ huyết đục là tướng hèn, huyết suy là tướng dâm, huyết trệ là tướng yểu. Cho nên huyết nên tươi sáng, trong ngoài nhuận Sắc thì là quý.
· 67- Tướng đàn bà thế nào là vượng chồng, thế nào là hại chồng ?
· Đàn bà vượng chồng thì lưng dày, vai tròn, đàn bà khắc chồng thì quyền (gò má) cao, Mũi nhỏ.
· Phàm tướng đàn bà dầu cũng đủ 13 bộ vị, 12 cung, 5 quan, 6 phủ, 3 đình, nhưng chỉ lấy bốn cái làm cốt: Trán là phụ mẫu (cha mẹ), Mũi là phu tinh (chổng), Miệng là tử tinh (con), Mắt là quý tiện (chủ sang hèn).
· Phàm xem tướng đàn bà trước xem Mũi là tượng chồng, nếu được thu thành thì chồng sang, lại nên Môi xứng, thì có con thành danh, ắt phải Mắt như Mắt phượng, tự nhiên vượng chồng, dựng nên nghiệp nhà.
· Lại phải một khuôn mặt không khuyết thiếu, sáu chỗ lép, ba chỗ nhọn, há thành gia lập nghiệp được sao ? Mặt như ngọc sáng, lo gì chẳng đẻ con sang, đàn bà khởi gia, ắt là ba đình được xứng, đàn bà hưởng phúc, tất nhiên trán chính my thanh.
· Há có đàn bà goá Mũi tròn, đâu thấy đàn bà sang mồm vẹt bao giờ.
· Mình thưm, thể chính là tướng phu quí phụ vinh; Mũi nhỏ, mặt ban là tướng đa dâm đa loạn, mình nhẹ, gót nặng, thể động, đầu lắc, phần nhiều làm đứa ở con hầu, mặt tròn, Mắt sáng là tướng con gái vượng phu, Mũi chính, thần thanh là tướng đàn bà phát phúc, da huyết sáng nhuận, ắt đẻ con hiền, mặt lớn, má lép, đừng nói phúc đức, da trắng như tuyết là tướng đa dâm, thịt nhuyễn như bông là tướng bần tiện; trán lép, người tròn, da lại mỡ, chẳng ở điếm (làm đĩ, đi hát) thì ở cũng chùa (làm ni cô); Môi trắng, Miệng nhọn, tóc lại vàng, chẳng làm mai (bà mối) thì làm thiếp (con hầu); Mũi tròn, huyết nhuận, ắt chủ hưng gia, Mũi nhỏ, sống đê, chắc là phá sản.
· 68- Đàn bà có tướng thấy con khắc chồng có nghĩa gì ?
· Phàm đàn bà gò má cao, con Mắt lóm, là tướng khắc chồng.
· Ấn đường bằng là chủ có con;
· Mũi là phu tinh, nếu hãm thì liền sát chồng
· Môi hồng ắt chủ có con.
· Sách nói rằng: "Đàn bà con ngươi đỏ là tướng thấy con khắc chồng".
69- Đàn bà mặt có sát tinh, thương chồng, khắc con là thế nào ?
Lã Động Tân nói: "Đàn bà có bảy tướng sát:
Đàn bà đẹp con ngươi vàng là một sát;
Mặt lớn, Miệng nhỏ là hai sát; trên Mũi mọc lằn là ba sát;
Tai lật lại không có vòng là bốn sát,
Mặt cực đẹp như Sắc bạc là năm sát,
Lông mi đen không xem được là sáu sát, Con ngươi, lớn lông mày thô, là bảy sát.
Như ngọ quan đều tốt, một khuôn mặt không khuyết thiếu, mà phạm những tướng ấy cũng chủ sát chống.
Sách nói rằng: "Má tợ bông đào, mặt như Sắc bạc, tưởng là tướng tốt, dè đâu sát chồng hại con, chém cha cái số Đào hoa, chỉ ở nơi đường hoa phố liễu (làm đĩ, đi hát) là tốt !".
o 70- Tướng đàn bà thế nào là oai nghiêm ?
o Phàm đàn bà nhàn tịnh cung kính là nghiêm
o Đoan chính trang trọng là oai, làm việc chân chính, khiến người xem thấy đều có vẻ sợ
o Ngồi đứng chẳng lệch
o Nói năng chẳng phiến
o Bụng dạ khoan đại
o Vẻ mặt ôn hoà
o Thấy sự vui chẳng mừng
o Thấy sự khó chẳng lo
o Đó là đàn bà quí trong trần, ắt vì có con mà thọ phong Sắc.
Ø 71- Tám phép yếu lược xem tướng đàn bà
o Thấy người khá kính . Có oai nghiêm trọng có dáng dịu dàng, tinh thần đoan túc, thinh âm hoà hài, đi đứng khoan thai, ngồi nằm bình chính là tướng quý, thọ và nhiều trai.
o Thấy người khá trọng - Tinh thần túc mục, cử chỉ đoan trang, eo tròn, lưng dày, mặt vuông, ngực rộng, tiếng nói trong óng, mép có lần vành, nói năng ôn nhu nhã đạm, có vẻ nghiêm nghị không ai dám phạm tới, là tướng trinh khiết mà có phúc trạch.
o Thấy người khá mừng - Có nết phong lưu, có vẻ tươi tắn, Miệng như hoa nở, Mắt như sao băng, khiến cho người xem thấy phải ngó liếc tơ tưởng là tướng tà dâm dễ dụ.
o Thấy người khá khinh - Bước đi oăn oai như bộ chẳng yên, dáng người éo le như hình muốn ngã, giọng nói đón đưa, vẻ cười gượng gạo là tướng bần tiện và hay bợ đỡ.
o Thấy người khá sợ - Tiếng sát, mặt ngang, trán rộng, gò má cao, bước đi nhấp nhảy như chân chim tước, Mắt lồi và ngươi đỏ như Mắt rắn, tợ như khí tượng đàn ông là tướng cương cường mà ăn ở trái lòng.
o Thấy người khá ghê - Gò má cao, lông mày xoắn, tiếng như tiếng ong, Mắt như Mắt chó sói là tướng cực ác mà khắc sát chồng con.
o Thấy người khá ghét - Mặt như mặt ruồi, ngực như ngực rùa, Môi hớt, răng lộ, Mắt nhiều tròng trắng lỗ Mũi ngửa lên, đi như chạy đuổi, tiếng ní phá vỡ là tướng xấu. Vẩy tay, lắc đầu, cắn ngón tay, đi xế nghiêng, mặt ngửa, gò má lếch, quần áo chẳng xứng thân thể là tương quê. Gò má cao, Mắt sâu, tóc ngắn, ngón tay bằng nhau, Mắt lóm, Môi mọc râu, là tướng quái. Mình, Miệng, nách, âm có mùi khó chịu là tướng hôi. Xương cứng, chân tay, tâm sống và tiếng nói đều cứng, con gái mà thân con trai là tướng ngạnh.
o Thấy người khá hãi - Trong âm hộ có vật gì xoắn như hình trôn ốc; lỗ âm nhỏ và đặc; không có lỗ như trống; trong âm có vật như cái sừng ngáng trở cửa âm; một đời kinh thuỷ chẳng điều và băng huyết, lậu huyết, bạch đới đều là tướng vào dụng.
· - Tướng lành và có đức của đàn bà
· Đầu tròn, trán phẳng
· Xương nhỏ, da hoạt
· Môi hồng, răng trắng
· Tóc non và thưm, nhuyễn
· Mắt dài, mày tốt
· Ngón tay nhọn, bàn tay dày, lằn tay tế mật
· Tiếng trong óng, ít nói cười
· Đi chậm mà bước ngay
· Ngồi, nằm đoan trang và trịnh trọng
· Thần thanh minh, khí hoà dịu
· Hàm nở dày, mép có lần vành
· Lưng tròn, eo phẳng, bụng buông xuống, ngực rộng, vai tròn
· Mặt như trăng đầy
· Vú lớn chẳng buông xuống
· Rốn sâu có vành
· Mình trắng hơn mặt
· Răng lớn mà bằng
· Tóc mỏng và đen nhánh
· Xương, thịt xứng đều
· Hơi mình thưm tho
· Âm hộ cao xích lên đường trước
· Thịt âm dày và lỗ âm thẳng.
Ø 73- Tướng dữ và đa dâm của đàn bà
Ø Gò má lộ xương mà quá cao
Ø Cổ họng kết, răng lộ (đó đều là tướng khắc sát và nghèo khổ)
Ø Đầu bù, tóc rối (là tướng nghèp)
Ø Đi lủi như rắn, bước thoắt như chuột (là tướng nghèo hèn và đa dâm) Lông mày liền, tóc thô (là tướng thiếu họ hàng nhờ cậy và khắc sát, nghèo hèn)
Ø Trên Mũi mọc dốt (tướng khắc sát)
Ø Mũi khum như lưỡi câu và lỗ Mũi lộ (là tướng nghèo hèn, khốn khổ và giam dâm)
Ø Mắt lộ bốn phía trắng (là tướng bạc ác, cơ cầu và khắc sát, cô khổ) Trên trán nhiều lằn (tướng khắc sát chồng con)
Ø Ngực gà, bụng chó (tướng nghèo hèn mà tham và dâm)
Ø Mắt nhiều gân vấn lấy con người (tướng hung ác hại người và khó đẻ) Tiếng đàn ông như lửa cháy dữ (tướng hung bạo ghen ghét, khắc chồng, không con) - Môi mọc râu, mặt mọc mụn đen (tướng nghèo hèn và khắc sát) Môi dưới quá Môi trên (tướng sát chồng, khắc con)
Ø Môi trên lớn và dày (tướng cương cường, ngoan ngạnh, ngu hèn và nghèo khổ)
Ø Đứng dựa nghiêng trước cửa, liếc Mắt dòm người
Ø Chưa nói trước cười
Ø Đi chạy nghể đầu
Ø Xốc áo giởn tóc mai
Ø Đang may vá ngừng kim châu mày
Ø Lắc mình ca hát
Ø Tóc vàng không có lông mày
Ø Mặt nhiều nốt ban, mụn đen
Ø Có lông mày mà không oai (mấy tướng đó đều là tướng dân dục và hèn)
Ø Nhân trung phẳng đầy
Ø Dưới Mắt thịt khô
Ø Long cung xung phá
Ø Miệng như thổi lửa
Ø Mình gái tướng trai
Ø Mắt sâu, xương khô
Ø Môi đen, Miệng lớn
Ø Không răng nanh, trán lồi (mấy tướng đó đều là tướng dâm dục và khắc sát)
Ø Mặt đen, tiếng lớn (tướng dâm ác)
Ø Hai mày dựng dậy (tướng sát chồng)
Ø Thấy người thì cười (tướng dâm)
Ø Nhìn như chim ưng, ngó như chó sói
Ø Ăn như con dê, bước như chim tước
Ø Lưỡi gấp, Miệng lanh
Ø Sắc mặt xanh đen
Ø Mày có góc, xương hiện ra
Ø Âm thầm nói không ra tiếng
Ø Làm việc lẫn bậy
Ø Lúc đi, lúc ngồi dường như suy nghĩ điều gì
Ø Đầu dủ sẻ gật
Ø Tiếng khê, Mắt né
Ø Tiếng gấp, Mắt dữ (mấy tướng đó đều là người ác nghiệt thâm trầm và hay ghen) –
Ø Mắt sáng như điện chớp
Ø Má ửng hồng như bông đào
Ø Mặt sáng nhoáng như dầu
Ø Miệng lớn hoác không thâm mím
Ø Lông âm hộ lơ thư như cỏ
Ø Âm hộ cứng không có thịt (mấy tướng đó đều là tướng dâm)
Ø Âm hộ - Lông âm mọc như chữ Nhân (là tướng gian tà mà không con) Thấp bạt ra đường sau (tướng nghèo hèn vất vả)
Ø Mặt trơn mà mình rít
Ø Mừng, giận không thường
Ø Một lần lắc mình, ba lần vẩy tay
Ø Liếc trước, ngó sau
Ø Ngồi, đứng bất định
Ø Ngủ mê hay kinh hoảng (Mấy tướng đó cũng đều là tướng đa dâm).
· Tướng đàn bà lúc có thai
· Sách Thần tướng Thiết quan đao nói rằng: "Đàn bà tai tả dày, trước sinh con trai, tai hữu dày, trước sinh con gái, một tai to, một tai nhỏ, con phải ăn sữa hai mẹ".
· Sách Liễu trang Thần tướng nói: Phàm đàn bà có thai, tới kỳ sắp sinh, thứ nhất Mệnh môn nên hồng tía, thứ nhì hai Mắt nên sáng sủa tinh tú, thứ ba Mắt nên có bóng trắng, thứ tư tiếng nói nên trong óng, mới mừng được thuận tiện mà sinh mẹ tròn, con vuông, lợi ích nên người.
· Thứ nhất kỵ Mệnh môn Thiên đình khởi Sắc tối, thứ nhì kỵ mặt nhiều bóng xanh, vả tối như sương mù; thứ ba kỵ Môi xanh, góc Miệng tối, thứ tư kỵ tiếng nói giọng ú ớ, Mắt không có thần, chỉ phạm một cái, lúc sinh sẽ có tai ách và phần nhiều chỉ sinh con gái.
· Phàm ngày xổ con, xem trong tay hữu, có thế biết được huyết trong mình thể nào, phải lấy lòng bàn tay làm chủ, hể hồng hết cả thì xổ liền và sinh con trai; như trắng xanh hết cả thì sinh con gái, nếu hai Sắc tối hết và nặng e khó đẻ và có tổn hại.
· Bóng vàng nặng, thì chỉ toàn được mẹ, chẳng toàn được con, bóng trắng thì chỉ toàn con, chẳng toàn mẹ, đen tối, xanh, vàng thì mẹ con đều khó toàn".
· Sách Thần tướng Thiết quan đào nói: "Đàn bà mặt đỏ đen, biết chắc là lúc sinh sản có tai ách, Môi chẳng che kín răng, trong lúc sinh sản rắc rối nhiều chuyện.
· Cho nên đàn bà nơi mặt Sắc vàng, thì lúc hoài thai ắt được yên khang. Lúc có thai, bàn tay tả xanh hồng thì sinh trai; bàn tay hữu xanh hồng thì sinh gái. Sáng tươi thì sinh sản dễ, khô khan thì sinh sản khó.
· Lúc đi, gót tả động trước thì sinh con trái, gót hữu động trước thì sinh con gái. Lúc ngó lại phần tà, hữu cũng hiệu triệu sinh trai, gái như vậy. Nơi mặt hễ Tam dương (Thái dương, Trung dương, Thiếu dương) Sắc sinh thì sinh trai, tam âm (Thái, Trung, Thiếu) Sắc hồng thì sinh gái.
· Đàn bà béo quá, phần nhiều là tướng không con, gầy quá hay là cao quá, phần nhiều là tướng khắc con.
· Đàn bà Mắt lộ, răng lộ, Môi hớt là tướng sinh sản có tai ách.
· Trong bàn tay vị Chấn đen cũng vậy.
· 75- Tướng đàn bà lúc sinh con
· Phàm đàn bà sinh con, xem Gian môn có thể định được vợ cả, vợ lẽ sinh sản tốt hay là xấu; vợ cả có thai thì xem Gian môn phía tả, vợ lẽ có thai thì xem Gian môn phía hữu, hễ trắng thì tốt, nếu tối đen thì xấu.
· Rồi sau xem Ngoạ tàm tía, hồng thì sinh con trai, xương gò má hồng cũng sinh con trai, Chuẩn đầu, Ấn dường hồng cũng sinh trai;
· Ngoạ tàm vàng thì sinh gái, Tam dương, Tam âm xanh cũng sinh gái, mặt không Sắc hồng cũng sinh gái.
· Y tlợn phép trên đây, xem những Sắc ấy có thể định được sinh vào ngày nào, tốt, xấu dường nào:
· Tam dương hoả vượng, thì vào những ngày Giáp, Ất, Bính, Đinh sinh con trai;
· Tam âm xanh nhiều, thì vào những ngày Canh, Tân, Nhâm, Quý sẽ sinh gái.
· Gian môn tối thảm, Ngoạ tàm xanh, sinh sản sẽ bị tai ách;
· Chuẩn đầu tối trệ, Ngư vĩ mọc ban, thì sẽ thấy con sát mẹ.