tư vấn bao la vạn sự

Hồng vũ cấm thư

Kén chọn về nước

Cập nhật : 05/07/2014
Cát thần, cát tướng, chẳng gì hơn là chẳng khiến phá phạm vào phương ngung. Cát thần tức là Càn Khôn Cấn Tốn vậy. Cát tường tức là Giáp,

Kén chọn về nước

 

Cát thần, cát tướng, chẳng gì hơn là chẳng khiến phá phạm vào phương ngung. Cát thần tức là Càn Khôn Cấn Tốn vậy.

Cát tường tức là Giáp, Canh, Bính, Nhâm, Ất, Tân, Đinh, Quý, Ất vậy. Hung thủy hung tinh thì chớ cho vào đăng đường nhuệ mộ cục.

Hung thủy tức là tà thủy, chàng thủy, quyển liêm thủy, trực thủy, hoàng tuyền thủy, hình lục thủy ấy vậy.

Hung tinh tức là lộc tồn, liêm trinh, phá quân, văn khúc, là những tinh ấy vậy. Kinh rằng:         

 Thiên lý lai long

Huyệt kết nhất tịch

Kinh rằng:                   
Long mạch dặm nghìn

Chung quy huyệt kết chỉ tìm chiếu con.

Mười can có âm dương. Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là dương. Ất Đinh Tỵ Tân

Quý là âm.

Mười hai chỉ có âm dương:

Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là dương. Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi là âm.

Bát quái có âm dương:

Càn, Khảm, Cấn, Chấn là dương. Tốn, Ly, Khôn, Đoài là âm.

Hai mươi bốn hướng, âm dương đều có một nửa.

Càn, Giáp, Khôn, Ất, Ly, Nhâm, Dần, Tuất, Khảm, Quý, Thân, Thìn, mười hai vị là dương long: Cấn, Bính, Tân, Tốn, Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, Chấn, Canh, Hợi, Mùi là mười hai vị là âm long.

Dương lại thì âm chịu Âm lại thì dương chịu. Dương long thì âm hướng Âm long thì dương hướng Huyệt dương thì âm chầu, Huyệt âm thì dương chầu.

Long mạch   Long huyệt    Long hướng

Hai mươi bốn long mạch lành dữ đoán rằng: Thượng tầng là cát long, hạ tầng là hung long: Thượng tầng cát long là:

Nhâm long Chính khí là Bính Tý

Nhâm long có ba hướng là: Ngọ: Khôn Ất. Nên ngồi Tý phương hướng về Ngọ:

ngồi tân hướng về Ất, ngồi Cấn hướng về Khôn.

Nhâm là dương long.

Quý long chính khí Đinh Sửu. Quý long có hai hướng là Ngọ và Khôn. Nên ngồi phương Tý hướng Ngọ, ngồi phương Cấn hướng Khôn. Quý là dương long.

Cấn long chính khí Mậu Dần.

Cấn long có tám hướng: Bính, Đinh, Canh, Thân, Tỵ, Mùi, Tốn, Đoài nên ngồi phương Nhâm hướng về phương Bính, ngồi phương Quý hương về phương Đinh, ngồi phương Giáp hướng về phương Canh, ngồi phương Ất hướng về phương Tân, ngồi phương Hợi hướng về phương Tỵ, ngồi phương Sửu hướng về phương

Mùi, ngồi phương Kiến hướng về phương Tốn, ngồi phương Mão hướng về phương Dậu.

Cấn là âm long.

Mão long chính khí Quý Mão.

Mão long có bốn hướng, Canh Tân Đinh Hợi nên ngồi phương Giáp hướng về phương Canh, ngồi phương Ất hướng phương Tân, ngồi phương Quý hướng phương Đinh, ngồi phương Tỵ hướng phương Hợi, Mão là âm long.

Tốn long chính khí Tân Tỵ, Tốn long có ba hướng: Tân, Hợi, Cấn. Nên ngồi phương Ất hướng phương Tân, ngồi phương Tỵ hướng phương Hợi, ngồi phương Khôn hướng phương Cấn, Tốn là âm long.

Bính long Chính khí Nhâm Ngọ, Bính Long có bốn hướng là Hợi, Canh, Tân, Cấn nên ngồi phương Tỵ hướng Hợi, ngồi phương Giáp hướng Canh, ngồi phương Ất hướng Tân, ngồi phương Khôn hướng Cấn, Bính là âm long.

Đinh  Long  Chính  khí  Quý  Mùi,  đinh  long    hai  hướng  Cấn,  Hợi  nên  ngồi phương Khôn hướng Cấn, ngồi phương Tỵ hướng Hợi, Đinh là âm long.

Canh Long chính khí Ất Dậu, Canh Long có hai hướng là Mão và Cấn nên ngồi phương Dậu hướng Mão, ngồi phương khôn hướng Cấn, Canh là âm long.

Dậu long Chính khí Ất Dậu, Dậu long có ba hướng Cấn, Tốn, Tỵ, nên ngồi phương khôn hướng cấn, ngồi phương kiền hướng tốn, ngồi phương hợi hướng tỵ. Dậu là âm long.

Tân long Chính khí Bính Tuất. Tân long có ba hướng Tốn, Mão, Cấn nên ngồi phương kiền hướng tốn, ngồi phương Dậu hướng mão, ngồi phương khôn hướng cấn. Tân là âm long.

Hợi long Chính khí tân hợi. Hợi long có ba hướng bính tốn đinh. Nên ngồi phương nhâm hướng binh, ngồi phương kiền hướng Tốn, ngồi phương quý hướng đinh. Hợi là âm long.

Hạ tầng hung long

Tý long Chính khí Canh Tý, Tý long có một hướng là hướng Khôn. Nên ngồi phương Cấn hướng khôn Tý là dương long.

Sửu long Chính khí Tân Sửu, Sửu Long có một hướng bính. Nên ngồi phương nhâm hướng Bính. Sửu là âm long.

Dần long Chính khí Nhâm Dần. Dần long có hai hướng khôn và thân. Nên ngồi phương Cấn hướng khôn, ngồi phương Dần hướng Thân. Dần là dương long.

Giáp long Chính khí Tỵ Mão. Giáp long có hai hướng Càn và Khôn. Nên ngồi phương tốn hướng càn, ngồi phương cấn hướng khôn. Giáp là dương long.

Ất long Chính khí Canh Thìn. Ất long có một hướng là hướng khôn. Nên ngồi phương Cấn hướng về Khôn.

Ất là dương long.

Thìn long Chính khí Giáp Thìn. Thìn long có hai hướng kiền và khôn. Nên ngồi phương tốn hướng kiền,ngồi phương cấn hướng khôn. Thìn là dương long.

Tỵ long Chính khí Ất Tỵ. Tỵ long có một hướng là hợi. Nên ngồi phương Tỵ

hướng Hợi. Tỵ là âm long.

Ngọ long Chính khí Bính Ngọ. Ngọ long có hai hướng là Quý Nhâm. Nên ngồi phương Đinh hướng quý, ngồi phương bính hướng nhâm. Ngọ là dương long.

Mùi long Chính khí Đinh mùi. Mùi long có một hướng là cấn. Nên ngồi phương khôn hướng cấn. Mùi là âm long.

Khôn long. Chính khí Giáp Thân. Khôn long có một hướng là Quý. Nên ngồi phương Đinh hướng Quý. Khôn là dương long.

Thân long Chính khí Mậu Thân. Thân long có hai hướng là Quý Giáp. Nên ngồi phương Đinh hướng Quý, ngồi phương Canh hướng Giáp. Thân là dương long.

Tuất long Chính khí Canh Tuất. Tuất long có một hướng là Ất. Nên ngồi phương

Tân hướng Ất. Tuất là dương long.

Kiền long Chính khí Đinh Hợi. Kiền long có một hướng là Ất nên ngồi phương

Tân hướng Ất Kiền là dương long.

Xem nước lại phương nào sinh vượng. Bát đất đi khỏi chỗ hưu tù.

Phải là được phép đó ru?

Mới thành kết quả mới thu công trình.

So sánh để lập huyệt ở chỗ bình dương.

Đại phàm chọn đất ở chỗ bình dương, thì nên lấy nước tốt làm chủ, lấy phương hướng làm tôn vậy. Vậy nên xem được nước phải như thế nào.

Nước thu về ở phương trường sinh đế vượng, bát đất đi khỏi nơi hưu tù nước đọng, ấy là người đã hiểu được phép vậy. Ví bằng được phương hướng trường sinh đế vượng thì sinh con rất thông minh tuấn tú. Nếu như đế vượng đi mà tràng sinh nghinh tiếp đến thì phú quý nó hẹn đến ngay. Như đế vuợng đi mà phá trường sinh, thì dẫu có con mà cũng chả làm ra gì.

Trường sinh lại mà phá đế vượng thì dẫu có giàu sang rồi cũng chẳng ra làm sao, chỉ luống công vậy thôi. Ví như gặp minh đường phương hướng cực chẳng hợp với thủy khẩu cho lắm nhưng cũng có thể tòng quyền mà lập hướng chứ không nên coi nhẹ mà vội bỏ đi vậy chăng.

So sánh thế nào là giả, kén chọn hình cục ấy thời là giả.

So sánh thế nào là chân, kén chọn trường sinh đế vượng ấy là chân. So sánh thế nào là âm?

- Nổi cao lên ấy thời là âm. So sánh thế nào là dương?

- Bằng mà thấp ấy là dương.

Trường sinh phương lại được nước tốt tức là lập được sinh hướng là tốt. Đế

vượng phương mà được nước tốt tức là đã lập được vượng hướng là tốt.

Mộ phương mà được nước tốt tức là đã lập được mộ hướng là tốt.

 Ngũ hành phương cục Thử xem bản sơn chỗ vị trí thuộc ngũ hành nào, Mộc tinh trường sinh ở Hợi,

Hỏa tinh trường sinh ở Dần, Kim tinh trường sinh ở Tỵ,

Thủy và thổ tinh trường sinh ở Thân

Các vị đều phải chiếu theo địa vị của nó khởi tự đâu, rồi đuổi theo trường sinh mà xem sao quan

diệu để mà xem phương vị.

So sánh hai sao quan diệu để mà xem phương vị sinh tử. Trường sinh cung xuất hiện là đỗ khôi giáp.

Quan diệu chủ ra đại quan về. Nửa năm tất nhiên đã phát.

Mộc dục cung xuất hiện thời bổng lộc hậu, quan diệu cung sao xuất hiện thì phát

đại quan.

Quan đới cung xuất hiện thì phát tài hoa.

Quan diệu sao chiếu chủ sang mà thanh chính. Lâm quan cung xuất hiện thì có tài chính sự.

Quan diệu sao xuất hiện thì làm quan bị chín lần đổi. Đế vượng cung xuất hiện thì là người thống

đạt Quan diệu sao chiếu thì làm quan chín lần đổi.

Ai cung xuất hiện thì là lưu liên đình trệ

Quan diệu sao chiếu chủ lâm quan không lộc. Bệnh cung xuất hiện là bị chinh chiến.

Quan diệu sao chiếu thì chủ lâm quan làm ác ngược. Tử cung xuất hiện thì là người không khí độ.

Quan diệu sao chiếu thì lâm quan không cất nhắc thì không có giấy tờ. Mộ cung xuất hiện là bổng lộc coi kho.

Quan diệu chiếu là chủ làm quan tích bảo. Tuyệt cung xuất hiện thì bị hao hụt của cải. Quan diệu chiếu thì là làm quan chết đường.

Thai cung xuất hiện thì người ta hình dung đẹp đẽ. Quan diệu sao chiếu thì chủ lâm quan thanh tú.

Dưỡng cung xuất hiện là người nhân từ.

Quan diệu sao chiếu thì làm quan hàm dưỡng khéo. Long mạch bằng ở hướng nước mà so sánh.

Ông Dương quân Tùng làm cái thuật cứu bần cũng tùy theo tất cả trên phương hướng mà lên lên xuống xuống, đổi thay thay đổi luân chuyển tuần hoàn. Vì rằng long huyệt vốn không phải là lành dữ, mà chỉ dạy lấy hướng nước là lành dữ vậy. Cho nên long mạch dẫu chẳng được đẹp tốt hoàn toàn cho lắm mà thủy thần nếu được trường sinh đế vượng chi khí thì cũng có thể phát phúc đinh tài lưỡng vượng vậy.

Trường sinh đế vượng nước đó cần phải đến, tử tuyệt nước đó cần phải đi. Nước lại nước đi quan hệ ở long huyệt lành hay dữ vậy. Một việc tối ư khẩn thiết không gì bằng cái nước trường sinh đế vượng phương mà nó tan rã. Thời long huyệt dẫu có thật cũng chẳng hay sinh tài phát phúc gì được, vậy mà lại còn tai bay vạ gió đến ngay. Đấy khá thấy bởi nước mà long huyệt thành ra dữ vậy. Mà nước nó

lành dữ lại tại phương hướng. Cho nên ông Dương Quân Tùng nói rằng tìm long mạch mà điểm huyệt tất nhiên phải lấy nước làm chủ, lấy hướng làm tôn trọng vậy như gặp phương trường sinh đế vượng, sa thủy hay lấy hướng thu về cục nội làm gốc ở huyệt quan lộc.

Thời phát phú quý phát phúc không còn ngờ vậy. Ngày xưa có người lập hướng nhỡ một khi nhầm lẫn, lại đem đế vượng phương sa thủy bát sang cái ngôi tử tuyệt thời bản huyệt quan lộc, hóa ra làm quỉ sát hại người tốn của. Đấy cái lý đương nhiên thật là việc đáng tiếc vậy.

Giả như khôn thân hành long, dần mão là ngôi bệnh, tử Tỵ Ngọ là tuyệt hai địa vị vậy. Mà Dần Mão Tý

Ngọ có núi cao nước cả ví bằng lộc tốn tỵ canh ba hướng, mà họa đến ngay. Như Bính Ngọ hướng thời cái núi Dần Mão làm hỏa tinh của tràng sinh mà cái nước của Tỵ Ngọ làm cái nước lâm quan đế vượng há chẳng làm phúc ru? Cho nên kén chọn hình thục ấy là giả

Kén chọn đế vượng ấy mới là thật. Vậy cho nên những chỗ hay, còn phải ở

người khéo biến báo hoạt bát vậy.

Tam hợp ngũ hành kén chọn long mạch, đại phàm xem long mạch phải biết từ núi tổ nó phát ra đi thế nào. Xuất thân chuyển qua quan ải núi non rộng hẹp nương tựa đổi thay mà lại, nhưng cần phải đến chỗ nào đặc biệt nhất làm cốt, thảng hoặc như có chân long thay đổi vắn mà sau rốt lại dài tất nên bỏ chỗ nguy mà nhận lấy chỗ chân nương tựa vào nước mà lập hướng như long nhập thủ mùi phương nước chảy thì lập Giáp Mão hướng vượng Đinh Mùi mộ hướng. Cho nên cần phải so sánh tam hợp. Bốn cục cũng đều như thế vậy

Tam hợp là: Thân, Tý, Thìn

Bốn cục là: Thân Tý Thìn là thủy cục.
Tỵ, Dậu, Sửu là kim cục

Hợi Mão Mùi là mộc cục

Dần Ngọ Tuất là hỏa cục.

Tiện ích Bambu
Tin liên quan
Bạn cần tìm kiếm?
Advert Advert2 Advert3
TextLink
BAO LA VẠN SỰ

Mobile: 0913 290 384  /  Email: tranngockiem57@gmail.com hoặc tuvan@phuclaithanh.com

Copyright © 2014   BaoLaVanSu. Thiết kế và phát triển bởi Bambu®