GIA CÁT VŨ HẦU HÀNH BINH ĐỘN GIÁP KIM HÀM NGỌC KÍNH ĐỒ
TỰA
Sách Kim hàm ngọc kính này thời thục, Gia cát Khổng minh làm ra. Thời Hán mạt, giặc khăn vàng làm loạn. Hào kiệt trong thiên hạ đều nổi dậy. Mà họ Tào, cha con Tôn Quyền, Chu Du, các tướng đều là những bậc dụng binh như Tôn Ngô. Đọc Khổng Minh và Chúa Thục đem binh qua địch, tung hành giữa khoảng Ngô Ngụy. Lấy kỳ binh mà thủ thắng lợi là sao? Đó là nhờ ở sách Kim hàm ngọc kính.
Khởi đầu từ thượng cổ, vua thánh Hiên viên phá Suy Vưu không thắng, liền trai giới, trên cảm đức Cửu Thiên Huyền Nữ mà Ngài truyền cho phép dùng các thần Lục Đinh Ngọc nữ, các độn giáp, trong tuần, gặp ngày và giờ độn, viết thành 8 cửa, định được cát hung, chia được trong ngoài thắng bại. Rồi tập thành một bí thư, truyền trong đời mà Khổng minh học được Long môn sơn trong hang sâu. Khổng minh hành quân, ra trận dùng sách này mà thắng các tướng Ngô Ngụy như thần. Khổng Minh đem sách ấy truyền trong đời về sau tự vạch đồ cục, 610 ngày Giáp Tý, mỗi ngày 12 giờ. Toàn đồ cục đều có 9 sao gặp các môn, cát hung, thành bại đều đủ cả. Khi hành binh, tuyển luyện đem dùng, sự ứng nghiệm xứng đáng với tên Kim Hàm Ngọc Kính Đồ (Đồ hình ráp vàng kính ngọc). Sách này trỏ vạch rõ ràng, riêng làm một nhà, không giống không giống như các sách Độn Giáp, xứng đáng là thần lạ, không lường nổi.
Khổng Minh có nói: sách này, vào những ngày hưng binh, để dùng binh Kỳ truyền đời. Hằng ngày tuyển trọn, ra đi, tất cũng không thể không có, chắc vậy. Lưu truyền trên thế, trải qua nhiều đời, biết phép làm tướng soái. vậy sách nên bí và quý, chỉ nên truyền cho ít người thôi.
Ta học binh 20 năm, các sách vũ kinh thao lược, Thất bảo tân thu, Lục chỉ kim kính, Thanh nang, Sách thư, Binh pháp các nhà, đều được xem đọc. Nhưng chỉ dem thể dụng có họ Tôn và đồ hình này là những thứ đáng là sách vở của các nước, không có một tơ tóc nào sai lầm, thật là báu vật trên đời này vậy.
Ta tuy là nhà võ, không biết văn, thấy chỉ đồ này là sắc, không dám thiện tiện giữ bí nên giao cho Hàng lão nhân ở núi Chung nam đưa bản triều đại tướng Địch Thanh giữ trong nhà một bản viết đằng tả và sai lại nhân Đoàn phủ sao lục ra để rộng truyền trong đời, cho đời sau cáo vị minh triết trung mưu dùng binh được tinh tế, mở rộng Vũ công, mới biết là ta không giữ bí những gì mà người hiền xưa đã truyền lại vậy.
GIA CÁT VŨ HẦU HÀNH BINH ĐỘN GIÁP KIM HÀM NGỌC KÍNH ĐỒ
TỔNG MỤC LỤC
QUYỂN 1:
Lệ khởi độn dương sau Đông chí, đi thuận 9 cung / Lệ khởi Độn âm sau Hạ chí đi nghịch 9 cung / Lệ khởi thứ tự tên Thần 9 cung / Lệ khởi 8 môn độn dương sau Đông chí / Lệ khởi 8 môn độn âm sau Hạ chí / Hình đồ bay cung trên bàn tay / Hình đồ 8 môn / Quyết khởi cửa Hưu / Quyết khởi 9 tinh bay cung / Ca 9 tinh cát hung / Ca 8 môn cát hung / Lệ đoán 9 tinh bay trên 9 cung / Lệ đoán 8 môn gặp 9 tinh cát hung / Giờ hung ngày 10 can / 8 môn nên / 9 tinh cát hung nên.
QUYỂN 2:
Hình đồ 8 môn độn dương sau Đông chí (Từ Giáp Tí đến Quý Tỵ 30 ngày).
QUYỂN 3:
Hình đồ 8 môn độn dương sau Đông chí (Từ Giáp Ngọ đến Quý Hợi 30 ngày).
QUYỂN 4:
Hình đồ 8 môn độn âm sau Hạ chí (Từ Giáp Tí đến Quý Tỵ 30 ngày)
QUYỂN 5:
Hình đồ 8 môn độn âm sau Hạ chí (Từ Giáp Ngọ đến Quý Hợi).
QUYỂN 6:
Quyết khởi Thanh long (không cứ Đông chí, Hạ chí, đều thuận số) / Quyết khởi Thiên ất Quý nhân / Quyết khởi Triệt lộ không vong/ Quyết khởi Hỷ thần – Giờ ngũ bất ngộ (5 đừng gặp) / Lệ hành sinh khắc – Lệ địa chi thuộc 5 hành / Ca khởi tháng trong năm / Ca khởi giờ trong ngày / Ca khởi Thanh long, Minh đường từng giờ / Siêu thần tiếp khí / hình đồ địa chi phối 8 cung / hình đồ bày trên tay 8 môn sau Đông chí / Hình đồ 9 tinh bay trên tay thuận số / Hình đồ bày trên tay 8 môn sau Hạ chí / Hình đồ 9 tinh bay trên tay nghịch số / Phụ biểu yếu quyết tấn công Kim tỏa Ngọc Hoàn độn giáp xuất hành / Thiên can / Địa chi / Các số bị khảo (khởi từ 12 đến 27 chỉ).