THÁI DƯƠNG
(Biểu tượng mặt trời - Nhật – Nam đẩu tinh
Dương Hỏa – Chủ về Quan Lộc)
Thái Dương miếu ở Mão cung,
Vượng ở Ngọ, Tỵ, Thìn, Dần một phương
Bình thì ở Dậu khá tường,
Hãm : Tuất, Hợi, Tí, Sửu cung rõ ràng.
Thái Dương mặt hóp thân gày
Thông minh, tươm tất, thảo ngay, hoà hiền
Canh nhân: Ngọ mệnh khá khen,
Nhâm nhân: Ngọ mệnh quí quyền tinh thông
Giáp nhân: Hợi mệnh vô dung;
Từ Mùi đến Sửu bần cùng khốn thay;
Dương Đà, Không Kiếp ăn mày
Đa phiền tâm sự tính ngày lo đêm
Da đen sắc hãm tính hèn
Kỵ, Đà: tật mục chẳng yên mọi đường
Thái dương miếu vượng mệnh phương
Loài người trung nghĩa tính cương lạ lùng;
Tốt nhất lại chiếu Thái Âm
Tử Vi, Tả Hữu, Lộc Quyền cát tinh
Dương mà cư Hợi u minh
Gặp Khoa Quyền Lộc hóa thành giàu sang
Dương hội Tả Hữu: Tài, Quan
Cùng là Khôi Việt, Khúc Xương lẫy lừng
Tử cung Bát Toạ cung Dương
Cát tinh hội họp sanh phường quí nhi
Cự, Phá thụ ám Dương này
Mắt mờ lao khó, thị phi suốt đời Linh,
Hỏa, Hình, Kỵ cùng nơi
Dễ sinh tai hoạ khó rời tránh xa Sửu
Mùi: Nhật, Nguyệt xem qua
Đối cung có mệnh ắt là rạng danh
Cùng cư Mùi, Sửu cho minh
Tam phương vô cát khó thành được công
Bấy giờ gần gặp Tuần Không
Ân Quang, Thiên Quí, Khúc Xương chiếu miền
Cũng là văn cách thánh hiền
Khác nào Nhật, Nguyệt cát tinh hợp cùng
Sát tinh Nhật, Nguyệt hãm cung
Nam thì gian đạo, nữ dòng dâm bôn
Kình, Đà, Diêu, Kỵ, Kiếp, Không
Lại là đôi mắt chẳng mong được dùng
Nhật, Mộc, Mã tại Tỵ cung
Trường Sinh, Phụ Bật hợp cùng: phú vinh
Bằng gặp Tướng Ấn: binh hùng
Phải thời loạn thế mới thành công to
Nhật, Nguyệt địa chiếm chớ ngờ
Cát tinh gia hội đợi chờ thềm cung
Mệnh Nhật Nguyệt gặp Triệt Không
Đóng cung Giải ách, hợp cùng Hỏa Linh
Có Kình, Đà, Kỵ khá kinh
Lưng còng, mắt chịu tật hình chẳng ngoa
Nữ mệnh: Dương chiếm ắt là
Phu nhân, nếu chẳng gặp tà ác tinh
Dương, Cự, Hao thật không lành
Chồng con phối hợp bất thành hôn nghi
Cước giải:
Sao Thái Dương thường gọi là Nhật, cung như Thái Âm thường thường gọi là Nguyệt. Một bên tượng trưng mặt trời, một bên là mặt trăng. Mặt Trời phải đứng ở dương phương, từ Dần đến Dậu thì sáng sủa, còn mặt Trăng đứng ở âm phương, từ Dậu đến Sửu thì mới đẹp, tuy nhiên có nhiều cách hãm mà tốt, cần được chú ý.
Đối với Nam mệnh, Nhật Miếu, Vượng hay Đắc địa thì con người vừa tầm, mặt vuông vắn, da hồng hào, dáng điệu đường bệ, thông minh, cương nghị, nhân hậu. Người sinh ban ngày và làDương Nam, Dương Nữ thì tốt tăng lên, nhưng nếu sinh về đêm, mà lại là âm thì tốt bị chiết giảm.
Nhật miếu, vượng, đắc địa gặp được trung tinh hội như Xương Khúc, Tả Hữu, Tam Hóa, Khôi Việt được cách nào cũng tốt chủ về tài quan vinh hiển. Nhưng nếu gặp
phải Tuần, Triệt án ngữ thì trọn đời không toại ý, thường bị bệnh đau đầu, khí huyết
kém, cần phải ly hương lập nghiệp mới hay. Nếu trường hợp trên gặp phải ác tinh, như Kình Đà, Không Kiếp, Diêu, Hình, Kỵ thì trở nên trắc trở công danh tiền tài khi có khi hết, lại hay gặp tai ương.
Nếu Nhật đắc địa mà gặp riêng sao Hóa Kỵ không có ác tinh khác tất biến thành tốt đẹp vô cùng, giàu sang và sống lâu.
Nhật hãm địa: Thân hình bé nhỏ, mặt choắc, tính ương gàn, kém bền chí, mắt kém, trọn đời vất vả, về già mới khá giả được. Nếu hãm mà gặp được tam Hóa hay Xương Khúc, Đào Hồng, Tả Hữu, Khôi Việt hay Hoả Linh đắc địa tất biến ra tốt đẹp về tài danh. Nếu gặp được Tuần, Triệt, thì cũng trở nên khá, tuy thường ly hương lập nghiệp. Nếu hãm mà gặp ác tinh nữa như Kình, Đà, Không, Kiếp, Diêu, Hình
thì tai ương khủng khiếp và yểu.
Đối với nữ mệnh, nếu Nhật đắc địa như các cách trên trì phúc thọ song toàn. Nếu gặp các cách hãm như trên thì thường đau yếu, ly hương, lập gia đình muộn hay làm lẽ mới khỏi cảnh ly tan. Nếu lắm ác tinh nữa thì khăc hại chồng con, chỉ sống lang bạt, không thì yểu tử.