Đặt tên theo họ
Nếu tính riêng người Kinh đã có hơn 100 họ, còn tính tất cả họ của các dân tộc Việt phải có tới 1 ngàn họ. Họ không chỉ là một bộ phận trong văn hoá dân tộc mà còn dùng để phân biệt họ hàng, đồng thời được xem xét như một hiện tượng văn hoá.
Do những thăng trầm của lịch sử, nhiều họ của nước ta bị xát nhập, ghép nên sự phân bố họ không đồng đều. Theo nghiên cứu của tiến sỹ Lê Trung Hoa, tỷ lệ phân bố các họ ở nước ta (chủ yếu là người Kinh) như sau: Nguyễn 38.4%, Tràn 11%, Lê 9.5%, Hoàng 5.1%, Phạm 5%, Phan 4.5%, Vũ 3.9%, Đặng 2.1%, Bùi 2%, Đỗ 1.4%, Hồ 1.3%, Ngô 1.3%, Dương 1%.
Họ của người Kinh có: An, Âu, Bá, Bạch, Bồ, Bùi, Ca, Cái, Cam, Can, Càng, Cao, Cán, Công, Cù, Cung, Chan, Chân, Chu (Châu), Chử, Diệp, Diêu, Doãn, Dư, Dương, Đái, Đàm, Đan (Đơn), Đào, Đặng, Đậu, Địch, Điền, Điêu, Đinh, Đình, Định, Đoàn, Đỗ, Đồng, Đức, Đương, Giản, Giáng, Giáp, Hà, Hạ, Hàn, Hán, Hoàng (Huỳnh), Hồ, Hồng, Kiều, Kim, Khu, Khúc, Khưu, La, Lã (Lữ), Lại, Lâm, Lê, Lý, Lục, Lư, Lương, Lưu, Ma, Mã, Mạc, Mai, Mạnh, Mao, Mị, Ninh, Ngạc, Ngọ, Ngọc, Ngô, Ngũ, Nguỵ, Nguyễn, Nghiêm, Nhan, Nhâm, Ông, Phạm, Phan, Phàn, Phó, Phù, Phú, Phùng, Phương, Quách, Quan, Quản, Quang, Sĩ, Sở, Sử, Tạ, Tào, Tăng, Tân, Tiêu, Tô, Tôn, Tôn Thất (Tôn Nữ), Tống, Tuyên, Từ, Thái, Thành, Thẩm, Thân, Trang, Trần, Triệu, Trình, Trịnh, Trực, Trương, Ung, Uông, Văn, Vu, Vũ (Võ), Vương, Xuân.
Nhiều họ bản thân đã có tính hình tượng. Một số họ có màu sắc như Bạch (trắng), Hoàng (vàng), Lục (xanh), Chu (đỏ) ... giống với cách dùng và ý nghĩa của họ phương Tây như White, Blue, Yellow; một số họ là những thứ đẹp đẽ như Hoa, Diệp, Dung, Anh, Giang ... có ý nghĩa giống với họ nước ngoài như Flower, cũng có họ bản than là danh từ hay tính từ. Đây là kho từ phong phú cho chúng ta đặt tên. Dựa vào sự kết hợp khéo léo của họ tên có thể có được rất nhiều họ tên hay. Dưới đây là một số ví dụ có thể tham khảo:
(1) Đặt tên tạo ra danh từ hay
Có rất nhiều tên hay như vậy, ví dụ: Giang Sơn, Bạch Dương, Chu Nhan, Lê Minh, An Tĩnh, Hoà Bình, Bình An, Hoàng Hà, Cao Sơn, Thạch Anh, Cao Phong, Mỹ Ngọc, Ngọc Diệp, Phương Hoa, Bích Ngọc, Chu Thiên...
(2) Đặt tên tạo thành cụm từ
Như Giang Khoan, Vạn Lý, Trương Dương, Sử Vận ...
(3) Dựa vào họ tạo ra ý nghĩa trừu tượng
Như Lý Hạ (lấy từ ý Qua điền lý hạ), Dương Phong Thanh (lấy từ Nguyệt bạch phong thanh), ... cách đặt tên như vậy cũng rất nhiều. Tương tự còn có Chu Thiên Kinh, Phương Hướng Chân, Vạn Lý Vân, Vạn Sơn Hồng, Môn Vạn Lý, Thạch Môn Khai, Hải Thiên Lương, Cao Sơn Thanh, Lê Minh Vũ, Chu Nhan Ngọc ... cách thêm từ vào sau hay giữa này có thể tránh được tỷ lệ trùng tên, tránh đơn điệu, tăng thêm ý vị, hoặc làm rõ nghĩa của từ hơn.
Điều cần chú ý là xu hướng tổng thể chung của họ tên vãn có sai khác, sự phân bố không đều, người họ bạch là nghĩ đến "Bạch Dương, Bạch Băng", người họ Mã thì nghĩ ngay đến "Mã Đáo, Mã Thiên Lý", người họ Ngưu thì nghĩ ngay đến "Ngưu Lang, Ngưu Quần" một cách tuỳ tiện, như vậy rất dễ có hiện tượng trùng lặp. Thử nghĩ xem khắp nơi đều Bạch Dương, Thu Hương, Lan Hoa, Hoàng Hà ... thì đặt tên còn có tác dụng gì nữa ? Làm gì còn tính độc đáo và tính phân biệt nữa ?
Do vậy những ông bố bà mẹ khi đặt tên theo họ cần chú ý dựa trên tiền đề cảm nhận và cảm thụ tố chất văn hoá, suy nghĩ sâu sắc mới có thể tránh xu hướng trùng tên. Nếu không so sánh và thiếu tri thức, chỉ dựa vào những thứ biết được, đặt tên tuỳ tiện, nếu không bản thân người đó sau này không những lạc hậu mà còn dễ nảy sinh tâm lý xã hội.