Năm 210 trước Công nguyên sau khi băng hà, Tần Thủy Hoàng được mai táng ở núi Ly Sơn ngoại thành phía đông Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Dựa theo những điều được ghi lại, phần mộ Tần Thủy Hoàng cao hơn 100 mét, đến nay vẫn như một tòa núi nhỏ, với thế đất rất hùng vĩ.
Ngay từ khi còn sống, Tần Thủy Hoàng đã lo xây dựng phần mộ cho bản thân mình rồi. Sau khi thống nhất được Trung Quốc, vị hoàng đế này đã dùng vài chục vạn người để tu bổ thêm. Theo truyền thuyết thì bên trong lăng mộ người ta dùng thủy ngân để tạo thành sông, suối và biển, các trân châu và báu vật tập trung đem vào trong đó không đếm sao cho hết.
Sau khi Tần Thủy Hoàng chết đi, tất cả những phi tần chưa sinh con, thợ xây và tu bổ lăng mộ cũng đều bị chôn sống theo hết, vì hoàng gia sợ họ tiết lộ những điều bí mật trong lăng mộ.
Thời xưa, sau khi người ta chết đi, thi thể đều phải đem chôn xuống đất, cho nên có câu nói "nhập thổ vi an" (chôn được xuống đất là yên). Nơi mai táng của những người bình thường đều phải dùng đất đắp thành một đống nhỏ để cho biết đây là một phần mộ. Những người có địa vị càng quan trọng, quan chức càng cao, tiền tài càng nhiều, thì sau khi chết đi phần mộ của họ càng càng to. Còn các đế vương, tể tướng, võ tướng vốn
muốn phô bầy địa vị cao quý của mình thì tự nhiên cũng có phần mộ được xây dựng càng đồ sộ hơn nữa. Do đó các phần mộ này được gọi là lăng. Lăng là một núi đất to. Phần mộ của Tần Thủy Hoàng có quy mô rất lớn, do đó gọi là Tần lăng.
Các lăng mộ đời Hán đều dùng đất đắp cao lên từng bậc, phần dưới to, phần trên nhỏ, tạo nên một hình thế ổn định, vững vàng như núi.
Từ đời Đường về sau, các bậc đế vương nhận thấy rằng phần mộ xây dựng như thế vẫn chưa phô bày hết được thân phận cao quý của mình, nên đã xây dựng những lăng mộ dựa vào núi.
Ngày nay phần mộ của các lãnh tụ và liệt sĩ cách mạng cũng được gọi là lăng hay là lăng viên, chẳng hạn như lăng Tôn Trung Sơn, lăng viên liệt sĩ Long Hoa...